Tuesday, April 6, 2021

 


Huỳnh Công Ánh


Cát


Bụi


Lăn


Trầm













Bìa:  

Thư Họa:  Vũ Hối

Tranh: Việt Phương

Trình bày:  Hoàng Vi Kha

Chân thành cảm ơn bằng hữu và thân hữu đã giúp thực hiện tập thơ này

Giới Thiệu


Thơ Nhạc là một kết hợp tuyệt vời trong dòng âm thanh luân chuyển dâng tràn mạch sống trên hành trình con người đi tới Chân Thiện Mỹ. 


Có người nói: Chín mươi phần trăm người Việt Nam là nhà thơ. Điều này được hiểu trong khái niệm Tâm Hạnh vốn có trong mỗi người Việt Nam, vừa thoát thai đã rung động cõi tâm hồn qua lời ru của Mẹ ngọt ngào trên từng nốt ca dao. Đó là bản chất ưu việt của dân tộc vốn chỉ thích nghi sống trong thanh bình giữa sông núi hồn nhiên. 


Thể hiện bản chất đó rõ nét nhất nhờ những người làm thơ, viết nhạc ca tụng tâm người với thiên nhiên đồng nội. Nhạc không có chất lãng mạn của thơ là nhạc không có hồn thiêng sông núi. Thơ không có cung bậc rung ngân của nhạc là thơ khô như cây không có lá để tỏa âm theo ngọn gió lay. 


Một con người biết hội tụ hai dòng Thơ và Nhạc để đi tới, vừa nuôi sống sinh lực bản thân, vừa làm nên chất thi ca dâng hiến cho đời thật đáng trân trọng. Huỳnh Công Ánh là một trong những con người đó. Anh không chỉ dùng lời thơ anh làm nhạc hát suông mua vui vài trống canh cho đời. Mà nhạc thơ anh chuyển tải cả khát vọng làm người, mở xích ngục tù đi đến tự do, nhân quyền và bác ái. 


Chất thơ nhạc của Huỳnh Công Ánh trên con đường hưng ca làm bùng dậy chí khí người dân Việt bất khuất trước bạo quyền và tội ác. Làm bừng sáng ngọn lửa đấu tranh vì sinh tồn của nòi giống Lạc Hồng. Hào hùng và trong sáng là tố chất thơ của Huỳnh Công Ánh: 

"..Khi tim mình máu quật cường Rồng Tiên nòi giống còn căng 

Những mùa Xuân xứ người tuyết giá lạnh căm 

Mà lòng ta nóng mong ngày về rừng rực 

Yêu nước, thương nòi không có lằn ranh tuổi tác 

Lòng dặn lòng khi rời nước ra đi 

Là nung nấu ngày về lồng lộng cờ bay đuổi giặc .. 


Nhưng anh và đồng bạn của anh đã bỏ nước ra đi trong nghẹn ngào tức tưởi, sống nhập cuộc lưu vong nơi miền đất lạ gần nửa đời người vẫn chưa được quay về nơi cố quốc để thăm đất quê cha và viếng mồ đồng đội của một thời bảo quốc an dân! Bởi ở đó còn bọn cường quyền thống trị . 

"..Xuân nào cha, ông ngẩng đầu ưỡn ngực 

Thù trong, giặc ngoài đánh dẹp. Vinh quang 

Xuân nào cháu con ngậm ngùi, tủi nhục 

Đứa gông cùm, đứa lưu lạc, lang thang ..! 


Đã mấy mươi mùa Xuân lưu lạc 

Hẹn hoài về thăm mẹ, thăm quê 

Lần lữa Xuân này rồi Xuân khác 

Mẹ héo hắt trông, con vẫn chưa về .." 

Nỗi hận mất nước hòa vào nỗi buồn viễn xứ đã làm nhà thơ nghẹn uất tim đau suốt bao nhiêu năm làm người bất hạnh: 


".. Mài gươm mãi đến bao giờ nhỉ? 

Bao giờ chém chết nỗi đau xưa 

Nỗi đau vẫn đó, ngày Quốc Hận 

30 tháng 4 sông núi ngẩn ngơ 

.. 


Ôi Tổ Quốc! Ôi hồn thiêng người bất hạnh 

Ôi Tự Do! Ôi khát vọng con người 

Ôi nòi giống! từng ngàn năm kiêu hãnh 

Sao bây giờ đành bỏ nước ra khơi! 


Tự Do ơi! Mẹ Việt Nam ơi!.." 


Cùng bất hạnh và cùng nỗi đau chung với anh là hằng triệu người Việt bỏ nước ra đi tránh ngọn đòn thù, tránh lũ cuồng nô hiểm ác: 

"Non sông vào thời u uẩn quá 

Ta với người đau nỗi đau chung .." 


Nước mắt nhà thơ đã chảy thấm những chấn song cửa nhà tù cộng sản, chảy trên đường đi tìm tự do. Một sự tự do không chỉ cho riêng bản thân anh, là tự do cho cả những thiết thân mà anh đã ôm trọn trong vòng tay:Tình Nước và Nghĩa Đồng Bào. Đó là niềm khát vọng trong thơ nhạc của Huỳnh Công Ánh. Niềm khát vọng hóa thân thành từng lời nhắn nhủ với anh em và con cháu trên từng quãng đường anh đi qua trên hành trình hưng ca: 

".. Hãy bước tới, sống từng giờ ý nghĩa 

Hãy nhớ quê hương, tổ quốc, giống nòi 

Hãy quí trọng người già, con trẻ 

Tình yêu thương sống mãi muôn đời, 

Làm người muôn đời 

Là làm người Việt Nam .." 


Thêm một điều cần nói đến là chất thơ Huỳnh Công Ánh rất giản dị như chính cuộc sống của anh. Lời thơ nhiều khi giống như lời nói bình thường giữa niềm xúc động dâng cao trong thổn thức với quê hương, với cha mẹ. Hoặc với lời nhắn nhủ cùng con cháu biết trách nhiệm mỗi con người đối với Quê Hương và Tổ Quốc. Như chính anh nhớ ơn nghĩa Mẹ Cha: 

".. cha truyền giòng máu Lạc Hồng 

ở trong con 

Truyền dạy tấm gương anh dũng 

Lý, Lê, Trần 

Dạy học làm người 

Phải yêu thương, chia sớt 

Làm người muôn đời 

Là làm người Việt Nam .." 

.. 

Con đi ngày ấy tóc còn xanh 

Lặng lẽ trông theo mắt mẹ đoanh tròng 

Đất khách, đầu con giờ đã bạc 

Ngày về xa, xa thăm thẳm ước mong 

Làm sao? Biết làm sao mẹ ơi!" 

Hoặc như anh nói chuyện với con trai Huỳnh Công Việt: 

".. Đặt cho con chữ đầu tên nước 

Là niềm tin, là hy vọng vô biên 

Là tất cả những gì mong ước 

Con hãy giữ gìn nòi giống Rồng Tiên." 


Nên thơ anh rất dễ đi vào lòng người đọc như lúc khát khô được uống một ly nước mát từ nguồn cội quê hương . 


Bạn hãy tin tất cả lời tôi dẫn trình sẽ có đủ trong "Cát Bụi Lăn Trầm”. Như thể trên thân cát bụi vỗ về lòng nhau. Bạn thử vỗ về dòng thơ Huỳnh Công Ánh, bạn sẽ thấy sự khát vọng tỏa sáng trên hành trình đi tới ngày mai trong mưu cầu hạnh phúc đơn sơ mà phải có trong mỗi cuộc đời: Thanh Bình, Tự Do và Nhân Ái. Như anh mời gọi: 


".. Mời em vào nghe trường ca đời tôi 

Trường ca không đổ nát 

Trường ca muôn thuở gào 

Để cháu con thấu được 

Những nỗi lòng quạnh đau 

Những người xa Tổ Quốc 

Luôn nhớ màu Quê Hương .. 

Luôn mong cầu hạnh phúc 

Hạnh phúc có từ tâm ta 

Có từ cùng bước chân hướng tới 

Một niềm mơ 

Một mái gia đình bình yên 

Ngập tràn tin yêu của mọi người .." 


Thơ Nhạc của Huỳnh Công Ánh là thế đó. Hạnh phúc, niềm mơ mở cửa trong hồn. 


Cao Nguyên 

Washington.DC 1/4/2016


Đọc Cát Bụi Lăn Trầm của Huỳnh Công Ánh Lãm Thúy

Tám năm trước, nhân dịp về Texas họp Đại Hội Văn Bút, trong một dạ tiệc, Lãm Thúy được biết Huỳnh Công Ánh.  Anh vừa là nhạc sĩ mà cũng vừa là ca sĩ.  Anh đã để lại trong đầu Lãm Thúy một dấu ấn quan trọng.  Đó là sự ngưỡng mộ một tài năng.

Vài năm gần đây, gặp lại anh, nghe nói anh làm thơ và có ra mắt thơ ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, vào dịp đó Lãm Thúy không có mặt để tham dự.

Nhớ những năm đầu mới sang định cư ở Hoa Kỳ, một người bạn gửi tặng quyển nguyệt san Làng Văn, thấy Nguyên Hương lúc ấy là chủ nhiệm, trong mục trả lời thư tín của một đọc giả muốn “thử làm thơ” để đăng trong Làng Văn, có nói rằng “chen vào Làng Văn không phải là chuyện dễ làm”.  Lãm Thúy gửi đi 5 bài thơ, viết thư kèm theo nói “Lãm Thúy cũng biết chen vào Làng Văn không phải là chuyện dễ làm, nhưng Lãm Thúy sẽ cố gắng.  Nếu lần này không được thì sẽ tiếp tục gửi đến chừng nào Làng Văn chịu đăng thì thôi.”  Nguyên Hương trả lời đăng 3 bài và sau đó dịp Xuân, chọn thêm bài thứ tư.

Phải thú thực là Lãm Thúy nôn nao, mong đợi từng ngày, từng giờ để mau đến ngày được thấy thơ mình góp phần vào trang báo nổi tiếng ấy.

Đợi hằng tháng trời, mở báo ra chẳng thấy tin gì.  Thất vọng não nề, vậy mà ông xã còn chọc quê: “Thi sĩ ngày nay mọc lên như nấm!”  Nghe Huỳnh Công Ánh làm thơ, ra mắt thơ, câu nói dễ ghét đó lại hiện về.

Cho đến khi đọc những bài thơ của Huỳnh Công Ánh, Lãm Thúy thật sự ngạc nhiên và xúc động.  Thơ anh bình dị mà sâu sắc, thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của một chiến sĩ quốc gia, một tấm lòng yêu nước thiết tha, một nỗi quan hoài canh cánh bên lòng vì tổ quốc, vì dân tộc và song song đó, lại là một tâm hồn đa cảm, nhạy bén.

Thú thực, Lãm Thúy có tính ngưỡng mộ người tài hoa, thấy ai hay, ai giỏi thì phục lắm.  Nhưng Lãm Thúy chỉ thực sự kính trọng nhưng ai có lòng yêu nước , thương nòi.  Đọc thơ Huỳnh Công Ánh, Lãm Thúy vô cùng cảm phục và kính ngưỡng.  Tràn ngập trong những trang thơ là nỗi hoài vọng luôn canh cánh bên lòng:

Ta cùng ta

Khao khát một lối về

Mồ mã ông bà

Mút tận bên kia

Nhang khói lạnh

Tay lưu vong vói.  Khuất


Tháng 4 trong lòng mỗi người dân miền Nam yêu nước là một vết thương mãi mãi không lành.  Trong bài thơ “Tháng Tư Nhớ Bạn”, Huỳnh Công Ánh bộc lộ một nỗi đau thương, cay đắng khôn cùng:


Mài gươm mãi đến bao giờ nhỉ

Bao giờ chém chết nỗi đau xưa

Nỗi đau còn đó, Ngày Quốc Hận

30  tháng 4 sông núi ngẩn ngơ


Sống ở xứ người, có tự do, có cơm no, áo ấm, nhà cao cửa rộng, nhưng thi nhân không cho đó là lạc thú mà bày tỏ nỗi lòng một cách xót xa:


Ta lây lất sống đời vong quốc

Bạn ngậm ngùi yên đáy mộ sâu

Cờ Vàng vẫn bay, bay cùng khắp

Dân tộc mình rồi sẽ về đâu?


Lo lắng cho dân tộc, Huỳnh Công Ánh lại hận cho những kẻ trở cờ, đón gió:


Tháng Tư thương tích đầm đìa đó

Ai vội quên tiếp rượu mời thù

Nợ nước, thù nhà chưa đền trả

Nỗi nhục này nhức nhối cả thiên thu


Mỗi tháng tư, mỗi lần 30 trong đời lưu vong, tác giả nhớ về cơn quốc biến đau thương, tan nhà, nát cửa, phải sống đời lơ láo tha hương:


Ước vọng chin trên cành chờ lúc rụng

Khản cổ kêu Quốc Quốc quá ngậm ngùi


Hay là hình ảnh thảm thương của những người thua trận lỡ làng:


Lơ láo nhìn nhau, cười như mếu

Sông núi, chinh nhân như tiếng thở dài


Lời thề với núi sông, lời thề với những chiến hữu đã bỏ mình để bảo vệ cơ đồ vẫn vang vọng trong tâm Huỳnh Công Ánh, một lời thề son sắt chẳng bao giờ phai nhạt:


Cúng bạn không xôi, không hoa quả

Bằng hứa, nguyền về dựng ngọn cờ

Ví phải kiếp này không thành được

Xin máu xương nằm đó với cõi bờ


Thơ Huỳnh Công Ánh, chính vậy, phát xuất từ tâm thành, không gọt dũa, mỹ miều nhưng thâm trầm, sâu sắc, đi vào lòng bằng cửa ngõ của những tấm lòng yêu nước thiết tha.


Yêu nước, thương nòi cũng là yêu lý tưởng tự do.  Chính vì thế, tác giả đã ca ngợi những người vượt biên không kể tử sinh, trong đó có chính tác giả:


Vì tự do lìa quê cha, đất tổ

Vì tự do, khổ nhục đến tận cùng

Vì tự do, không cúi đầu trước bạo lực

Vì tự do, xác vùi dập biển Đông 

(Vượt Biên)


Nhóm từ “vì tự do” lập lại nhiều lần như một khẳng định chắc chắn của một quyết tâm, mặc kệ cái giá quá đắt phải trả:  sinh mệnh, khổ nhục, xa cách quê hương.


Biển vẫn hững hờ gầm thét

Người tìm tự do bỏ xác oan khiên

Ôi tổ quốc! Ôi hồn thiêng những người bất hạnh

Ôi Tự Do! Ôi khát vọng con người

Ôi! Nòi giống từng ngàn năm kiêu hãnh

Sao bây giờ đành bỏ nước ra khơi


Hàng loạt những tán thán tự được lập lại thật bi hùng: “Ôi Tổ Quốc!”, “Ôi Tự Do!”, “Ôi nòi giống!” để rồi cuối cùng thảng thốt kêu lên những tiếng xé lòng:


“Tự Do ơi! Mẹ Việt Nam ơi!”


Cũng một bài “ Vượt Biên” nhưng khác hơn, khủng khiếp hơn “Vượt Biên 81!” được tác giả miêu tả một cách cụ thể đến đau lòng:


Khi đã biết cùm gông và bạo lực

Thì Tự Do có thể đánh đổi máu xương

Người con gái vượt biên

Bị dày vò trong tay hải tặc

Hàng vạn dân lành chìm trên biển.  Chết

Biển vẫn hững hờ gào thét

Người lũ lượt bỏ quê hương, bỏ xác trên biển Đông


Những thảm cảnh ấy được vẽ ra đầy thương tâm.  Cái giá của tự do quá đắt, nhưng con người chấp nhận nó, cam lòng tự nguyện, kể cả tự nguyện ô nhục, tự nguyện kết thúc cuộc sống của mình vì hai chữ “tự do”.


Thoát khỏi ngục tù cộng sản bằng cuộc vượt thoát phi thường.  Sinh tồn sau cuộc vượt biển kinh hoàng, Huỳnh Công Ánh được định cư ở Hoa Kỳ.  Đáng lẽ có cuộc sống yên ổn, hài lòng.  Nhưng không, lòng anh vẫn hướng về quê nhà, từng mùa nhớ thương.


Mùa Xuân là mùa tươi thắm, mùa vui vầy.  Nhưng trong Xuân Không ta tìm thấy tâm trạng xót xa, đau buồn của tác giả:


Không ai trói chân nơi đất khách

Không ai bầm dập, thế mà đau


Nỗi nhớ quặn thắt:


Nhớ tổ tiên cúi đầu tạ tội

Nhớ mẹ già thắt ruột, nhói tim


Nhớ bà mẹ thân yêu đang trông chờ mỏi mắt:


Hiu hắt cả đời thân mẹ khổ

Tấm mẵn nuôi con, gồng gánh tảo tần

Lẽ ra hôm sớm về bên mẹ

Về thăm thôi, sao mãi lựa lần


Mẹ ơi! Tết về, năm đã hết

Lầm than dân nước vẫn ê chề

Buồn đếm từng mùa Xuân đất khách

Đếm từng tủi nhục kẻ xa quê


Với Huỳnh Công Ánh, mùa Xuân ở đây không phải là mùa Xuân thật, bởi lòng người không vui, chỉ có Xuân thanh bình, Xuân quê hương mới là mùa Xuân thật sự:


:Người chờ mùa Xuân thật

Ngại ngùng chẳng về đây


Hay


Lòng chao theo cánh gió

Bủn rủn lạc về đâu

Mấp máy môi thèm ngỏ

Mình nói mình nghe thôi

(Xuân 13)


Làm thơ Xuân đã chán, Huỳnh Công Ánh làm thơ Tết,


Tối 31 Tết đọc trong tâm

Đếm cả năm qua mấy lỗi lầm


Yêu người, yêu đời, yêu tổ quốc

Xót giống nòi dưới nanh vuốt ngoại xâm

(Tết Tây 13)


Hết Tết Tây rồi đến Tết Ta, tâm trạng cũng chẳng khá hơn.   Cũng nỗi cô đơn, niềm hoài vọng làm bạn tháng ngày:


30 Tết một mình

Sáng Mồng Một quạnh hiu

Luộc vài ba quả trứng

Như mọi ngày oatmeal


Quán Việt Nam đóng cửa

Không bánh Tét, bánh Chưng

Đành no cùng nỗi nhớ

Qua vội một mùa Xuân

(Tết 13)


Thơ Huỳnh Công Ánh vậy đó, đơn giản, bình dị mà xuyên thấu hồn người.  Xuân tha hương hẵn là buồn, gần như đó là tâm trạng chung của người Việt xa xứ, nhưng mùa Hạ ấm nồng thì sao?


Nay cũng hạ về thân lữ khách

Nhớ mẹ, nhớ trường, nhớ người xưa

Nhớ lính nguy nan mà hiển hách

Còn hơn lầm lũi chiếc thân thừa

(Hạ Về)

Mùa Hạ mà còn buồn, còn nhớ đến vậy thì mùa Thu chắc chắn phải buồn hơn bởi cảnh Thu tàn tạ, dễ gợi niềm ly biệt, nỗi nhớ nhung.  Quả thực, mùa Thu trong thơ Huỳnh Công Ánh vừa lãng mạn, vừa mơ mộng mà cũng vừa bình thường:


Mùa Thu về, lá vàng rơi

Mùa Thu ta rụng bên trời lưu vong

Thương chiếc lá, thấu nỗi lòng

Lá, người xa cội đều mong quay về

(Thu)


Câu thơ rớt xuống hồn người đọc như một nốt đàn trầm.  Thật ngậm ngùi!


Nói thơ Huỳnh Công Ánh lãng mạn, thì đây:


Lá với lá, reo bên trời

Ta cùng em vẫn muôn đời bên nhau

Mùa Thu về, lá lao đao

Thu về ta cũng xôn xao nhớ nàng


Cũng từ tâm thái lãng mạn ấy, với những dòng lục bát mượt mà, đầy cảm xúc, Huỳnh Công Ánh đã bày tỏ một tâm hồn lạc quan, yêu đời dù đời dập vùi, cay đắng đến đâu.  Hãy đọc bài thơ “Thả”:


Thả vào tâm một niềm vui

Tim dồn dập máu, nụ cười òa ra

Thả vô tay một cành hoa

Hương đơm, nhị tỏa, tình xa hóa gần

Thả yêu thương đến vô ngần

Chờ mùa lên trái, ân cần xum xuê

Thả nhân ái, thả tương thân

Nhập về đếm được bao lần ngẩn ngơ


Và cuối bài thơ là một ý tưởng ngộ nghĩnh mà độc đáo lạ lùng:


Thôi đành viết gửi bài thơ

Không ai thèm đọc, dùng tờ giấy thôi

Gói bất đồng đem chợ trời

Mở ra bán lấy đồng lời đau đau


Như chúng ta đã thấy, Huỳnh Công Ánh có một tấm lòng yêu nước thiết tha, luôn hướng vọng về quê nhà mà trăn trở, quan hoài.  Cũng chính trong trái tim nồng nàn ấy, những yêu thương dành cho gia đình, cho thân nhân ruột thịt, cho bạn bè cũng không kém phần nồng ấm.  Những dòng thơ bình dị, chân thành mà sâu sắc; giản dị mà đầy xúc cảm, dễ đi vào lòng người:  


Những đoạn thơ cho Cô Tư, Cô Tám, Huỳnh Thị Tánh, Huỳnh Công Tường lời lẽ đơn sơ, mộc mạc chủ ý thể hiện tình cảm nhiều hơn là nặng về nghệ thuật.


Thơ cho Hoàng Mai thì lời lẽ thật bao dung.  Lãm Thúy nghĩ đó là người vợ đã không còn chung sống của tác giả:


Đục trong cũng đã ngót đời

Sướng vui, vinh nhục, đầy vơi ta cùng

Tơ duyên phím lỡ, dây chùng

Nỗi đau đã thấu mấy tầng cao xanh


Bài thơ chứa đựng nỗi đớn đau, chia cắt, cũng phơi bày thảm cảnh của những cuộc hôn nhân tan vỡ:


Không riêng chỉ mỗi có cành

Mà thân, rễ, lá cũng đành khô lây

Bao giờ giận người mới khuây

Cho ta thở một hơi đầy nhẹ tênh

Đến bao giờ người mới quên

Bao giờ sai, đúng đôi bên giữ thầm

Cuối cùng là một thái độ nhún nhường độ lượng


Mà thôi, cả ấy lỗi lầm

Để ta nhận đủ cho tâm người hiền

Cho các con thôi lây phiền

Và rõ ràng là tìm cách xoa dịu những đớn đau mà cuộc chia ly đã mang đến:


Có ai thoát bể khổ đời

Xin người thôi xả đầy vơi giận hờn


Riêng đối với con gái Huỳnh Cẩm Đoan, mấy câu thơ ngắn ngủi mà đớn đau vô cùng, thể hiện sắc nét cảnh tù tội, nhà tan, cửa nát:

Con đã đi vào cõi thiên thu

Thuở mới lên năm, ba đi tù

Mẹ ở Saigon lo hai em nhỏ

Con mất một mình, chẳng thấy mẹ cha đâu


Với Huỳnh Tú Đoan thì nhắc nhở nhẹ nhàng:


Xinh bên ngoài cần đẹp bên trong

Chữ nghĩa nào hơn được tấm lòng

Vinh quang nhất là thương nòi, nhớ nước

Dẫu muôn đời con vẫn là Việt Nam


Với Huỳnh Hà Đoan thì tác giả nhắc lại thời chinh chiến khó khăn, xa cách:


Con chào đời tháng mươi hai

Ba áo hành quân sờn vai, bạc màu

Bước đời ta cuộc bể dâu

Về thăm giày trận bết màu chiến chinh


Riêng với Huỳnh Anh Sơn, tình cảm càng thắm đượm hơn, vì con, dám đổi cả cuộc đời:


Tháng Ba đảo điên còn nằm trong bụng

Trên tàu Trường Xuân quay lại vì con

Tháng Năm chào đời ba đi trình diện

Cay đắng trong tù từ Bắc chí Nam


Tình người cha đậm đà, tha thiết dường ấy mà có lẽ những đứa con chưa thấu hiểu cho cùng.  Nhưng Huỳnh Công Ánh không trách hờn, chỉ cảm thấy hạnh phúc đến nỗi rơi lệ khi con mình gọi về để chúc mừng trong ngày Lễ Cha.  Bài thơ “Những Ngày Lễ Nhớ Con”


Ngày Lễ Cha con gọi thăm, chúc

Quá vui!  Nước mắt tuôn dòng

Suốt cả năm con gọi thật ấm lòng


Nắng mùa hè mà lòng già thấm lạnh

Lạnh phút sum vầy, mơ bữa ăn chung


Lãm Thúy không biết khi các con anh đọc những dòng thơ này có thấy lòng xúc động hay không.  Chứ bản thân Lãm Thúy cũng nghẹn ngào, thương cho những bậc cha mẹ ở xứ này, con đi xa lập nghiệp. bận bịu và cũng vô tình, bỏ mặc song thân nhớ thương, chờ đợi.  Cả năm mới gọi về nói vài câu chúc tụng rồi thôi.  Tội nghiệp cho ước mơ nhỏ nhoi chỉ cần ăn một bữa cơm chung, quây quần bên con cháu!


Khắc đậm hơn hết trong tâm hồn tác giả là tình cha, tình mẹ


Tình cha như núi

Tình cha như sông

Cha là ngọn đuốc

Là ngọn hải đăng …..

(Tình Cha)


Và mẹ, nỗi đau thương tử biệt nghẹn ngào:


Mẹ hiền yêu dấu ơi

Giòng đời trôi vẫn trôi

Âm dương xa cách rồi

Nhớ mẹ quá đi thôi


Nhớ mà không thể về.  Hãy nghe thi nhân bày tỏ lý do:


Con lưu vong từ đó

Ngày đêm muốn quay về

Không vì đường xa cách trở

Không vì bận việc áo cơm

Không vì nhạt nhòa thương nhớ

Không thể về vì giặc tràn khắp quê hương


Ôi! Cái lý do phi lý nhất đã làm cho bao nhiêu đứa con tha phương đành nuốt lệ nghẹn ngào hướng vọng hương linh khi nghe mẹ đã buông xuôi, rời bỏ sự sống sau bao tháng năm dài chờ đợi đứa con xa xứ quay về thăm.  Huỳnh Công Ánh đã nói thay cho bao người hận tủi:


Con đi ngày ấy tóc còn xanh

Lặng lẽ trông theo mắt mẹ đoanh tròng

Đất khách, đầu con giờ đã bạc

Ngày về xa, xa thăm thẳm ước mong


Ngày đi tóc xanh, giờ đầu bạc nơi đất khách ngậm ngùi:


Ngày mẹ xuôi tay con không về lần cuối

Xa nhà, xa mẹ làm sao vui?


Một khía cạnh khác trong thơ Huỳnh Công Ánh là nỗi ngao ngán tình đời:


Tôi có lần phóc lên ngựa cầm gươm

Vì thế lệnh tôi oai ghê lắm

Em thời ấy ngọc ngà, lụa gấm

Rồi một ngày thất trận điêu linh


Ta có lần lỡ vận, thất cơ

Không tránh khỏi bần hàn, cùng khốn

Em vì thế tưởng rằng ta khờ lắm

Buông rẻ lời rung rẩy – buồn làm ngơ


Ta có lần mặc áo vá, chân không

Đi đứng ngại ngần, nói lời mộc mạc

Em như thế hững hờ nhìn hướng khác

Ta đành ngơ.  Là thế chuyện nhân gian


Không những chấp nhận tình đời bạc bẽo một cách ung dung, Huỳnh Công Ánh nhiều khi còn tự xét lấy mình, tìm những nguyên nhân sâu xa khiến người đời bất bình.  Bài thơ “Tự Hối” là một cách sống cao cả, phi thường, ít người có được.  Thường thì người chỉ thích trách người chứ ít ai chịu trách bản thân:


Không lẽ bỗng dưng vô cớ

Ai đó gây sự với mình

Đôi khi nói, làm không nhớ

Mới xảy ra chuyện bất bình


Quan niệm sống của thi nhân thấu triệt triết lý Phật giáo sâu sắc:


Trần gian vô thường thôi đấy

Mình chỉ là khách lữ hành

Ít, nhiều, có, không cũng vậy

Ngày kia như sương tan nhanh


Cái chân lý “Sắc tức thị không – không tức thị sắc” và cuộc đời như sương, như bọt sóng cần hỷ xả được Huỳnh Công Ánh diễn tả đơn giản:


Đi tìm nguồn hạnh phúc thật

Là xả phiền muộn cõi đời

Không quan tâm chuyện còn, mất

Niết bàn trong tâm mình thôi


Và:


Thân tâm ơi, thôi rong ruổi

Tháng ngày tự tại, an nhiên

Miệng ta ơi! Thôi ít nói

Tịnh độ may bớt ưu phiền


Nói thì nói vậy chứ làm sao bỏ qua được những cảnh trái tai, gai mắt, rồi cũng đành phải lên tiếng:


Huynh đệ chi binh, ai cũng nhớ

Lương khô, gạo sấy, nước bi-đông

Sáng duyên hải, chiều Trường Sơn rong ruổi

Ta không hề lỗi hẹn với non sông


Mà nay viễn xứ sao buồn lạ

Đôi lúc lòng ta cũng ngẩn ngơ

Người cùng chiến tuyến hăng đấu đá

Sao chẳng cùng nhau dưới bóng cờ

(Chuyện Núi Sông)


Trải hồn mình qua từng âm điệu, từng hình ảnh, từng ý tình trong tập thơ Cát Bụi Lăn Trầm của Huỳnh Công Ánh, ta phải ghi nhận 3 điều:


Thứ nhất, tác giả có lòng yêu nước sâu xa, tha thiết, lúc nào cũng hướng vọng quê nhà bằng tất cả nỗi xót xa trong lòng người viễn xứ


Thứ Hai, tác giả có một tâm hồn bao dung, rộng lượng, một tình cảm đậm đà, sắt son dành cho cha mẹ, vợ con, người thân, người yêu, cô dì, chú bác, bạn bè, chiến hữu


Cuối cùng, ta cũng tìm thấy một tâm hồn lạc quan, yêu đời, luôn tự tin dù cuộc sống có chà đạp, vùi dập bao lần, dù người thân, người yêu có quay lưng phản bội:

Hồn chín tới giữa điệp trùng luân lạc

Thân còn xanh, háo hức đợi đâm chồi

Dẫu lá úa lựa lần vàng ngơ ngác

Nhựa nguyên đầy chuyển động nhánh thân phơi


Chính bởi bầu nhiệt huyết còn sôi sục, sức sống, sức đấu tranh còn đầy ắp trong hồn, trong thân nên:


Mỗi lần nghiêm ngắm Cờ Vàng bay

Như thấy hồn thiêng của giống nòi

Đỏ máu anh hùng ba dòng chảy

Từ thuở Hùng Vương đến đời đời


Tất cả những tâm tình nồng nàn ấy, lòng yêu nước tha thiết ấy, hồn thơ lãng mạn ấy đã được chuyên chở bằng thứ ngôn ngữ bình dị, chân thành nên dễ chạm đến tim người đọc thơ.


Cảm ơn thi nhân nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh đã góp cho đời một áng văn chương yêu nước, một niềm hoài vọng khôn nguôi và một lòng tin không suy biến vào vận mệnh huy hoàng của dân tộc Việt Nam mai sau.










Xuân Tôn Ngộ Không Bính Thân 2016


Đếm mấy mươi mùa Xuân lưu vong

Xuân lo, Xuân nhớ, Xuân long đong

Xuân nào nhìn nhau nụ vàng trong mắt

Xuân nào quay lưng lửa rực đoanh tròng


Xuân nào cha, ông ngẩng đầu ưỡn ngực

Thù trong, giặc ngoài đánh dẹp. Vinh quang

Xuân nào cháu con ngậm ngùi, tủi nhục

Đứa gông cùm, đứa lưu lạc, lang thang


Xuân này nằm mơ được phép thần thông

Vội vã quay về đại náo Thăng Long

Phạt lũ tham ô, đánh phường bán nước

Mùa Xuân đây rồi, mùa Xuân Bính Thân












Vội nhổ râu mình thổi thành quân tướng

Quân tướng nhổ lông biến thành súng gươm

Trường Sơn, Biển Đông quân reo muôn hướng

Hà Nội, Saigon không còn tai ương


“Thân Dậu niên lai kiến thái bình”

Trông mỏi, trông mòn hóa ra ngông

Xuân thất thập gối chồn, chân mỏi

Xuân đây rồi, Xuân Tôn Ngộ Không





Xuân Ẩm


Khề khà ly rượu nhạt

Vài ngụm thôi mà say

Cuộc đời ta, ta biết

Nỗi lòng ta, ta hay


Ngoài kia trời giá rét

Đây hồn ta ngây ngây

Cuộn giòng đời chảy xiết

Sóng lòng ta vơi đầy


Em bao giờ về lại

Ta chờ, ta chờ đây

Chưa bao giờ ái ngại

Cuộc tình vụt cánh bay


Mà thôi! Thong thả nhấm

Buồn vui trọn nhấp này

May còn vòng tay ấm

May còn em đêm nay


Xuân Không


Đã mấy mươi mùa Xuân lưu lạc

Hẹn hoài về thăm mẹ, thăm quê

Lần lữa Xuân này rồi Xuân khác

Mẹ héo hắt trông, con vẫn chưa về


Tháng năm hờ hững không hề đợi

Nhân sinh một kiếp, chẳng là bao

Không ai trói chân nơi đất khách

Không ai bầm vập, thế mà đau


Thêm một Xuân nữa thân lầm lũi

Không pháo, không hoa, không nhang đèn

Nhớ tổ tiên, cúi đầu tạ tội

Nhớ mẹ già, thắt ruột, nhói tim


Hiu hắt cả đời thân mẹ khổ

Tấm mẩn nuôi con, gồng gánh tảo tần

Lẽ ra hôm sớm về bên mẹ

Về thăm thôi sao mãi lựa lần








Mẹ ơi, Tết về, năm đã hết

Lầm than, dân nước vẫn ê chề

Buồn đếm từng mùa Xuân đất khách

Đếm từng tủi nhục kẻ xa quê













Xuân 13

8 tháng Giêng 2013

Ngoài hiên nhìn mây trắng

Gió xô nghiêng chiều tà

Tội nghiệp đường quạnh vắng

Chờ từng bước người qua


Dáng Xuân về tất bật

Hồn Xuân lãng đãng bay

Người chờ mùa Xuân thật

Ngại ngùng chẳng về đây


Lòng chao theo cánh gió

Bủn rủn lạc về đâu

Mấp máy môi thèm ngỏ

Mình nói, mình nghe thôi


Rùng mình thân lưu lạc

Bẽn lẽn chạm đôi bờ

Đời người như khúc hát

Lạc lõng vào bơ vơ


Tết Tây Mười Ba


Tối ba mươi Tết đọc trong tâm

Đếm cả năm qua mấy lỗi lầm

Yêu người, yêu đời, yêu tổ quốc

Xót giống nòi dưới nanh vuốt ngoại xâm


Sáng Mồng Một chải tóc, soi gương

Sợi bạc, sợi đen, da hằn từng đường

Thấp thoáng ánh vàng, hàng cau, khóm chuối

Mọc lặn lờ xanh nỗi nhớ thương


Mồng Hai Tết nhìn người qua lại

Không phải vui Xuân mà tất bật áo cơm

Dân xứ này chả ai biết ngày Tết Việt

Sống quen không láng giềng Việt Nam


Mồng Ba Tết, như mọi ngày, lơ láo

Ôi! Nhớ quê hương xa khuất muôn trùng

Gượng mỉm cười cùng Xuân buồn ão não

Tiễn Xuân bần thần, nỗi nhớ mông lung





Tết 13


Ba mươi Tết một mình

Sáng Mồng Một quạnh hiu

Luộc vài ba quả trứng

Như mọi ngày oatmeal


Ngụm trà khổ qua đắng

Nhắp chén đắng đời mình

Ngoài trời không có nắng

Mình với mình lặng thinh


Quán Việt Nam đóng cửa

Không bánh tét, bánh chưng

Đành no cùng nỗi nhớ

Qua vội một mùa Xuân



Ngày Xuân Ai Đó Luận Đường Thi

Tặng Lê Anh Dũng

Mồng 2 Tết Ngọ 2014


Này bạn! bao năm tù đày

Mấy mươi năm lưu vong lánh giặc

Nhằm nhò chi tóc pha màu bạc

Khi tim mình máu quật cường Rồng Tiên nòi giống còn căng

Những mùa Xuân xứ người tuyết giá lạnh căm

Mà lòng ta nóng mong ngày về rừng rực

Yêu nước, thương nòi không có lằn ranh tuổi tác

Nên sá gì chuyện thất thập cổ lai hy

Lòng dặn lòng khi rời nước ra đi

Là nung nấu ngày về lồng lộng cờ bay đuổi giặc

Xuân Kỷ Dậu, gò Đống Đa giặc Tàu phơi xác

Có mùa Xuân nào như thế nữa?


Hỡi bạn thân!

Nếu ta không liên kết nhau xích lại thật gần

Không thành một khối những con dân nước Việt

Không dẹp thù trong, đánh giặc ngoài ra khỏi nước



Không xiển dương, trau dồi dân khí, dân trí Việt Nam

Không noi gương cha ông đánh Tống, bình Chiêm

Mà ngồi đó luận Đường thi với lũ văn nô lai căng, phản quốc

Đâu có văn hóa trong đầu những nhà văn, nhà thơ không biết nhục

Mà chỉ có đê hèn, xum xuê, khiếp nhược, nô lệ ngoại bang


Nên bạn à! Chớ có phí thời gian

Hãy dồn hết những tháng ngày còn lại

Hồn Quang Trung linh thiêng rền tiếng gọi

Dậy sóng Lại Giang, cuồn cuộn giòng Tân An

Đèo giốc Bình Đê, lừng lững đỉnh Cù Mông

Lan vọng đến Nam Quan tận Cà Mau ngùn ngụt

Lửa Dân Chủ, Tự Do, Nhân Quyền thiêu đốt

Đám Việt gian, Việt cộng, giặc Tàu

Để có mùa Xuân ta ngồi lại với nhau

Trên đất nước thân yêu không còn bóng giặc


Ôi! gần bốn mươi mùa Xuân u-uất

Biết bạn đau, cũng thế lòng ta đau

Nên Xuân về ta hãy chúc nhau

Còn một phút cũng còn thương nòi giống


Hãy nở trong lòng nhau đóa Xuân dẫu muộn

Triệu triệu tấm lòng già, trẻ, gái, trai

Là triệu đóa hoa Xuân rực rỡ tương lai

Cho Tổ Quốc, giống nòi có mùa Xuân thật sự


Chào bạn nhé! Chào những mùa Xuân quá khứ

Cùng hớn hở chúc nhau mùa Xuân tới An Khang


Mồng 2 Tết trên đường từ Dallas đến New Orleans

















tháng 4 – 40 Năm


Tháng 4 về bước chân người lạc lõng

Lòng lặng lờ theo năm tháng trôi xuôi

Ước vọng chín trên cành chờ lúc rụng

Khàn cổ kêu Quốc Quốc quá ngậm ngùi


Tháng 4 về ta với ta tranh đấu

Kiếm cung treo sét rỉ đã bao ngày

Những ước vọng xanh ngời thời thơ ấu

Đã vàng theo lãng đãng kiếp mây bay


Tháng 4 về hẹn hò nhau cuối nẻo

Áo trận sờn theo nhịp bước một hai

Lơ láo nhìn nhau cười như mếu

Sông núi, chinh nhân như tiếng thở dài




Tháng Tư Nhớ Bạn

30-4-2014



Mài gươm mãi đến bao giờ nhỉ?

Bao giờ chém chết nỗi đau xưa

Nỗi đau vẫn đó, ngày Quốc Hận

30 tháng 4 sông núi ngẩn ngơ


Vấn mãi trong hồn vầng tang trắng

Rưng rưng rượu rót lệ đời ta

Mời bạn cạn cùng niềm cay đắng

Cạn cùng kẻ lưu vong xót xa


Ta lây lất sống đời vong quốc

Bạn ngậm ngùi yên đáy mộ sâu

Cờ Vàng vẫn bay, bay cùng khắp

Dân tộc mình rồi sẽ về đâu?





Tháng 4 thương tích đầm đìa đó

Ai vội quên, tiếp rượu mời thù

Nợ nước, thù nhà chưa đền trả

Nỗi nhục này nhức nhối cả thiên thu


Dấu cũ quê nhà binh lửa đó

Vết thương chinh chiến máu còn tươi

Trai thời loạn vào cơn binh lửa

Chuyện tử sinh coi nhẹ như chơi


Tháng 4 nhớ nước, không quên bạn

Nén hương thắp vái bạn hồn thiêng

Rượu nhục âm dương xin cùng cạn

Âm dương còn nhớ một lời nguyền


Cúng bạn không xôi, không hoa quả

Bằng hứa, nguyền về dựng ngọn cờ

Ví phải kiếp này không thành được

Xin máu xương nằm đó với cõi bờ.



Vượt Biên

lời ca


Biển mênh mông, biển chập chùng sóng vỗ

Thuyền mong manh trôi giạt giữa muôn trùng

Vì Tự Do lìa quê cha, đất tổ

Vì Tự Do, khổ nhục đến tận cùng


Bước xuống thuyền bằng đôi chân hy vọng

Ôi niềm mơ tươi sáng một bên trời

Em đâu ngờ hải tặc oan khiên và biển sóng

Nhận đời em tận đáy trùng khơi


Thuyền rời biển vào đêm đen hoảng hốt

Người lên thuyền bỏ cay đắng sau lưng

Vì Tự Do không cúi đầu trước bạo lực

Vì Tự Do xác vùi dập Biển Đông











Người con gái hóa điên

Trầm mình vào biển chết

Biển vẫn hững hờ gầm thét

Người tìm Tự Do bỏ xác oan khiên


Ôi Tổ Quốc! Ôi hồn thiêng người bất hạnh

Ôi Tự Do! Ôi khát vọng con người

Ôi nòi giống! từng ngàn năm kiêu hãnh

Sao bây giờ đành bỏ nước ra khơi!


Tự Do ơi! Mẹ Việt Nam ơi!







Vượt Biên 1981


Biển mênh mông

Biển sóng chập chùng

Thuyền mong manh

Thuyền dật dờ hoảng hốt

Người như nêm

Dưới lòng thuyền sóng sượt

Lời cầu kinh, niệm Ơn Thiêng, vượt thoát

Mà lòng cay theo lệ xót nhớ quê nhà


Thuyền ra khơi

Đêm đen, đen mịt

Hớt hãi lên thuyền, bỏ cay đắng sau lưng

Khi đã biết cùm gông và bạo lực

Thì Tự Do có thể đánh đổi máu xương









Người con gái vượt biên

Bị dày vò trong tay hải tặc

Hàng vạn dân lành chìm trên biển. Chết

Biển vẫn hững hờ gào thét

Người lũ lượt bỏ quê hương bỏ xác trên Biển Đông













Chuyện Núi Sông


Non sông vào thời u uẩn quá

Ta với người đau nỗi đau chung

Dẫu xưa áo trận, giày sô đã

Bao lần chiến thương, vượt núi băng rừng


Huynh đệ chi binh, ai cũng nhớ

Lương khô, gạo sấy, nước bi đông

Sáng duyên hải, chiều Trường Sơn rong ruổi

Ta không hề hổ thẹn với non sông


Mà nay viễn xứ sao buồn lạ

Đôi lúc lòng ta cũng ngẩn ngơ

Người cùng chiến tuyến hăng đấu đá

Sao chẳng cùng nhau dưới bóng cờ









Chào Cờ


Mỗi lần nghiêm ngắm Cờ Vàng bay

Như thấy hồn thiêng của giống nòi

Đỏ máu anh hùng ba dòng chảy

Từ thuở Hùng Vương đến đời đời













Ngoảnh Lại


Ngoảnh lại quê hương

Bốn mươi năm ra khỏi biên cương

Áo, súng, Tự Do vứt ra ngoài đường

Cả nòi giống gông xiềng từ đó

Người lính Cộng Hòa ngã ngựa tang thương


Ngoảnh lại quê hương

Bốn mươi năm nòi giống điêu linh

Trẻ thơ thiếu ăn, em gái bán mình

Thanh niên cọt còi, lao nô kiếm sống

Cụ già còng lưng buôn gánh, bán bưng


Ngoảnh lại quê hương

Bắt bớ, giam cầm suốt Bắc, Trung, Nam

Tàu cộng nơi nơi, hống hách, ngang tàng

Việt cộng khiếp hèn, tham ô, hung ác

Đàn áp dân lành, bán nước cho ngoại bang








Ngoảnh lại quê hương

Ô nhiễm, lầm than, nghèo đói tai ương

Lừa đảo gian manh, giáo dục học đường 

Bạo quyền độc tài mua quan, bán chức

Tổ quốc, giống nòi, ô nhục tang thương













Mỗi Tháng 4 Về


Anh đứng im lệ tuôn trào

Theo tận cùng niềm đau

Lòng tan hoang, uất hận, nghẹn ngào

Tháng 4 đó, trời giăng mây xám

Saigon mất tên, Cờ Vàng bị hạ xuống

Mẹ Việt buồn, Tổ Quốc lao đao


Tháng 4 năm nay đứng nghiêm

Nhìn Cờ Vàng bay bay trong gió

Hạnh phúc, niềm mơ, mở cửa trong hồn

Giọt máu hùng anh 3 giòng máu đỏ

Trên nền da vàng muôn thuở Việt Nam


Cờ Vàng bay, bay khắp năm châu

Cờ Vàng lung linh, rạng rỡ khắp địa cầu

Cờ Vàng sẽ tung bay khắp 3 miền đất nước

Cờ Vàng độc lập, Cờ Vàng dân chủ

Cờ Vàng Tự Do, dân Việt hạnh phúc bên nhau










Ai Cũng Thế


Một ngày kia

Ai cũng thế

Tro bụi nào rồi cũng

Về với bụi tro





Cát Bụi Lăn Trầm


Ngày sau ta sẽ ta, là cát

Cát bụi cũng cần có cái tâm

Chu kỳ chuyển kiếp này, kiếp khác

Ta nhọc nhằn lăn, vết lăn thầm


Ôi! Ngót một đời qua nhanh quá

Những trái ngang, nghiệt ngã, thăng trầm

Năm tháng hững hờ trôi vội vã

Chợt nhìn mình mái tóc đã hoa râm


Biết thế đấy, sao vẫn còn bám víu

Những lợi danh, vật chất, tiền tài

Được số ngàn, muốn thành hàng triệu

Muốn xóa hận thù mà lòng mãi giằng dai


Cõi tạm trần gian người về bụi cát

Quyền thế, sang, hèn, rồi cũng xuôi tay

Và giàu có chắc gì đã hạnh phúc

Sao không bình tâm, an lạc từng ngày


Hãy bước tới, sống từng giờ ý nghĩa

Hãy nhớ quê hương, tổ quốc, giống nòi

Hãy quí trọng người già, con trẻ

Tình yêu thương sống mãi muôn đời


Vũ trụ còn không được yên một chỗ

Huống hồ ta, đâu có thấm tháp gì

Điều chắc chắn có sinh là có tử

Thảnh thơi ư? Phải diệt tham, sân, si


Đừng bám víu, đừng tưởng mình quan trọng

Đừng tham lam, kiêu hãnh, vô tình

Đừng hờ hững nhìn những mảnh đời bất hạnh

Mở vòng tay nhân ái với tha nhân


Xả lỏng hết những buộc ràng nhân thế

Xả lợi danh, xả nghịch cảnh, hận thù

Buông xả hết cho thân an, tâm nhẹ

Hồn sạch trong, xóa sạch bóng thâm u






Nhớ Ngày Đầu


Bài ca nào hát tặng em

Để nhớ ngày đầu gặp

Nỗi nhớ nào tít tắp

Nỗi nhớ hai đầu

Ủ-ấp một niềm mơ


Một câu ca, một bài thơ

Bổng trầm in sâu nỗi nhớ

Để mai sau và muôn thuở

Môi mắt mời chào

Mở cả một quê hương





Lời ca bay vẽ lại con đường

Mênh mang, rộn ràng cung bậc

Giữ mãi phút đầu không mất

Phút đầu xa xưa

Thăm gặp trong mơ


Có ai trông, có ai đó mong chờ

Xin viết giữ bài thơ kỷ niệm

Nỗi nhớ tận cùng hóa thành mầu nhiệm

Mầu nhiệm nào có thật bao giờ










Tình Cha

Viết 5/10/15

Đã thành ca khúc


Cha, tình cha như núi

Tình cha như sông

Tình cha mênh mông

Như non cao, trời rộng

Cũng như tình mẹ

Ngọt ngào, thiết tha

Cũng như tình mẹ

Dạt dào sóng xa

Bao la lòng biển lớn


Cha, cha là ngọn đuốc

Soi đường để con đi

Là vầng thái dương

Ấm áp trong tim này

Là ngọn hải đăng

Giữa biển đời lênh đênh lạc lối

Là chiếc dù che mưa, nắng bước con đi

Cha, lời cha vẫn đó

Lời cha vang vang

Lời cha sáng suốt

ấm êm, rõ ràng

Lúc trên đường đời

Gập ghềnh, hoang mang

Lúc trong cuộc đời

Lầm lạc, lỡ làng

Nhớ đến lời cha

Bước vững vàng


Cha, cha truyền giòng máu Lạc Hồng

ở trong con

Truyền dạy tấm gương anh dũng

Lý, Lê, Trần

Dạy học làm người

Phải yêu thương, chia sớt

Làm người muôn đời

Là làm người Việt Nam

Cha, con tha thiết gọi

Cha ơi!

Nhớ mẹ


Mẹ hiền yêu dấu ơi

Giòng đời trôi vẫn trôi

Âm dương xa cách rồi

Biết mẹ đang nơi đâu

Nhớ mẹ quá đi thôi

Bao giờ gặp được mẹ ơi


Bên này bờ thương nhớ

Bên kia là quê hương

Mỏi mòn trông tựa cửa

Mẹ nhòa lệ yêu thương


Con lưu vong từ đó

Ngày đêm muốn quay về

Không vì đường xa cách trở

Không vì bận việc áo cơm

Không vì nhạt nhòa thương nhớ

Không thể về vì giặc tràn khắp quê hương


Ngày Lễ Mẹ thứ 39

Ý thơ Thu Nga

Nhạc và Lời HCA


Mẹ sống từng ngày quạnh hiu, lây lất

Héo hắt trông con, mắt mẹ mờ lần

Mẹ ơi trung hiếu con đánh mất

Xa mẹ, xa quê ray rứt kiếp lưu vong


Con đi ngày ấy tóc còn xanh

Lặng lẽ trông theo mắt mẹ đoanh tròng

Đất khách, đầu con giờ đã bạc

Ngày về xa, xa thăm thẳm ước mong


Làm sao? Biết làm sao mẹ ơi

Giặc chiếm non sông, ngăn cách xa xôi

Ngày mẹ xuôi tay, con không về lần cuối

Xa nhà, xa mẹ làm sao vui?








Chiều nay gió thốc giăng mây xám

Xám cả trời mây, nhớ nước non

Xám tựa quê nhà ngày giặc đến

Xám cả đời mẹ thao thức ngóng trông


Mẹ ơi phương này con nhớ mẹ

Mong ngày non nước sớm Tự Do

Dân Việt thanh bình, yên vui, no ấm

Con về quỳ trước mộ phần mẹ cha










Tam Quan – Bồng Sơn


Nước, cát mơn man chân nàng trắng mịn

Giày Shaut đen, lính trận bước song đôi

Bờ Cửu Lợi thời chiến chinh bịn rịn

Dừa Tam Quan còn xanh trong mắt tôi


Em cô gái Hoài Châu xinh xắn

Ngày ấy nghỉ hè về thăm quê

Tóc xõa vai tròn thơm bay trong nắng

Chợt nhìn em, quên mất đường về


Quên mất ta là lính trận

Gạo sấy, ba lô, xuôi ngược quân hành

Nay Bình Định, mai Pleiku, Komtum lửa đạn

Đời mong manh treo sợi chỉ mành








Theo vận nước điêu linh trôi giạt

Chốn lao lung rồi lây lất xứ người

Thoáng chốc ngoái về mái đầu điểm bạc

Như đâu đây còn khúc khích tiếng cười


Em gái lâu rồi không gặp lại

Giòng Lại Giang vẫn thế, hững hờ trôi.











Tuổi Thơ Tôi

Lời ca khúc


Tuổi thơ tôi là con đường làng bụi đất

Hàng tre đong đưa cao vút

Con đê quanh làng uốn khúc cong cong


Tuổi thơ tôi nô đùa quanh giếng nước trong

Ngày rình nghe con chim sáo hót

Đêm hương hoa cau cùng trăng tỏ ngủ trong lòng


Tuổi thơ tôi là ngôi trường làng đơn sơ mái rạ

Anh chị tôi đều đi đến trường cả

Tôi thèm theo mà còn nhỏ quá! Đứng nhìn theo


Tuổi thơ tôi dưới mái tranh nghèo

Thời chinh chiến, đạn bom khốc liệt

Nhớ ngày chia đôi đất nước

Tôi xa làng, xa xứ làm con nuôi







Tuổi thơ tôi nhiều buồn, ít vui

Sung sướng nhất là những ngày hè về thăm anh em, cha mẹ

Trong nội trú sách đèn quạnh quẽ

Tuổi thơ tôi như thế, nuôi lớn tôi
















Những Ngày Lễ Nhớ Con


Không phải buồn mới khóc!

Ngày Lễ Cha, con gọi thăm, chúc

Quá vui! Nước mắt tuôn dòng

Suốt cả năm, con gọi thật ấm lòng

Thế mới hiểu khóc cười cũng vậy

Lẽ ra cười thôi, mới phải


Sáu mươi tuổi ngoài xuôi ngược, long đong

Các con đã thành đạt, vẻ vang

Tiền chẳng thiếu, thiếu tình cha bên cạnh

Nắng mùa hè mà lòng già thấm lạnh

Lạnh phút xum vầy, mơ bữa ăn chung








Ngày trên đầu mả có bình bông

Đó là đóa hoa không thật

Xót thương con, cả đời tất bật

Nhớ con, liều vượt cùm gông

Đưa con vượt vùng đất khổ

Đến xứ tự do vui

Mà khóc ròng












Cho 

Cô Tư, Cô Tám

Anh, Chị, Em

Các Con

Các Cháu

Họ Hàng

Bạn Hữu



Cô Tư – Huỳnh Thị Phụng


Cô là cô ruột, là mẹ nuôi con

Năm 54 chinh chiến tạm ngưng

Lúc ấy tuổi đời vừa lên tám

Từ Bình Định dắt lên Komtum

Gởi vô trường Lasalle Kim Phước

Nhờ các soeur dạy học vỡ lòng

Cùng các Frère ở trong nội trú

Rồi Nha Trang, chuyển đến Saigon


Gởi đi các trường mong con thành đạt

Ôi! Ơn cô biển rộng, sông dài

Đi lính, đi tù biệt mù ngoài Bắc

Ở nhà một mình, khi mất chẳng còn ai


Cô Tám – Huỳnh Thị Tâm


Cô kính yêu, ở Saigon

Chở che bao đợt cháu con trú nhờ

Tình thương con, cháu vô bờ

Cô thân lặn lội cái cò nuôi con

Làm sao đền đáp công ơn

Đời đời xin thắp nén hương phụng thờ

Cầu xin ân sủng Chúa Cha

Cầu cùng Đức Mẹ Maria nhân từ

Gần nhan Thánh Chúa trên trời

Thiên đàng một cõi đời đời cô vui





Chị Hai Chiêu


Chị đi vào thuở xế chiều

Đàn em lưu lạc quạnh hiu nẻo về

Thương chị hiền như mẹ quê

Chính chuyên tựa những khóm tre quanh làng











Huỳnh Công Quang


Anh đã tịch, biệt gia đình

Bỏ chai rượu đế, bỏ họ Huỳnh Phú Kim

Anh về cùng với tổ tiên

Vợ con chốn cũ, đàn em bên trời



Huỳnh Công Thành


Anh em là tay, là chân

Vết xước chút xíu đã rần rần đau

Huống hồ cùng một cuống nhau

Từ mẹ hiền, quặn thắt đau sanh thành







Huỳnh Thị Lan


Bôn ba đều có số phần

Tuổi người con Sửu có thân phải cày

Tay bằng miệng, miệng bằng tay

Đùm bọc anh em, nuôi bầy con thơ

Tảo tần từ thuở đến giờ

Bôn ba rốt cuộc âu lo gối đầu











Huỳnh Công Minh


Anh em cùng một buồng nhau

Cùng bầu sữa mẹ ngọt ngào yêu thương

Lớn lên mỗi người mỗi phương

Thoát lao lung, buồn tha hương bên trời







Huỳnh Thị Tánh


Mẹ mất vào ngày quê hương buồn thảm

Tánh, Tường còn nhỏ, sợ hãi, bơ vơ

Các anh đi tù, nhờ dượng Mười và hàng xóm

Sơ sài lo mai táng

Thương hai em ảm đạm tuổi thơ









Huỳnh Công Tường



Người ta thường nói, nhất đầu, nhì út

Tường là em thứ mười một trong nhà

Các anh lớn lúc giặc về đều tù ngục

Tang mẹ, tang cô lúc em tuổi mười ba

Phấn đấu gian nan, xứ người thành đạt

Anh em tụ về ngày giỗ mẹ cha

Số may mắn, hiền lành, ít nói

Vợ, con ngoan, anh em thiết tha

Hồi ấy con anh sốt xuất huyết

Em thay anh bồng đi nhà thương

Giữa đường oan nghiệt Cẩm Đoan chết

Trên vai chú Tường, oằn nỗi đau khôn lường




Hoàng Mai



Đục trong cũng đã ngót đời

Sướng vui, vinh nhục, đầy vơi ta cùng

Tơ duyên phiếm vỡ dây chùng

Nỗi đau đã thấu mấy tầng cao xanh

Không riêng chỉ mỗi có cành

Mà thân, rễ, lá cũng đành khô lây

Bao giờ giận người mới khuây

Cho ta thở một hơi đầy nhẹ tênh

Đến bao giờ người mới quên

Bao giờ sai, đúng đôi bên giữ thầm

Mà thôi, cả ấy lỗi lầm

Để ta nhận đủ cho tâm người hiền

Cho các con thôi lây phiền

Cho các con hiểu cuộc nhân duyên này







Ta giờ như cánh vạc bay

Tiếng kêu khuya vọng mong khuây khỏa người

Giữa đêm đen xoải rã rời

Giữa nhân gian xót, cả đời đắng cay

Người cùng ta thả buồn này

Theo mây nhờ gió thổi bay bên trời

Có ai thoát bể khổ đời

Xin người thôi xả đầy vơi giận hờn














Huỳnh Cẩm Đoan


Con đã đi vào cõi thiên thu

Thuở mới lên năm, ba đi tù

Mẹ ở Saigon lo hai em nhỏ

Con khuất một mình, chẳng thấy mẹ cha đâu











Huỳnh Tú Đoan


Xinh bên ngoài, cần đẹp bên trong

Chữ nghĩa nào hơn được tấm lòng

Vinh quang nhất là thương nòi, nhớ nước

Dẫu muôn đời con vẫn là Việt Nam



Huỳnh Hà Đoan


Con chào đời tháng mười hai

Ba áo hành quân sờn vai bạc màu

Bước đời ta cuộc bể dâu

Về thăm giày trận bết màu chiến chinh









Huỳnh Anh Sơn


Tháng Ba đảo điên con nằm trong bụng

Trên tàu Trường Xuân, quay lại vì con

Tháng năm chào đời, ba đi trình diện

Cay đắng trong tù từ Bắc chí Nam













Huỳnh Công Việt


Đặt cho con chữ đầu tên nước

Là niềm tin, là hy vọng vô biên

Là tất cả những gì mong ước

Con hãy giữ gìn nòi giống Rồng Tiên




Huỳnh Công Nam


Trân quí lắm tên con liền tên nước

Cho muôn đời niềm mơ ước không lay

Dẫu đời ba có lưu lạc, đọa đày

Vẫn tin ở nơi con ngày quay lại







Huỳnh Anh Thư


Chào đời trong cảnh lầm than

Đứa con gái út muộn màng của ba

Giữ gìn con, lúc phong ba

Biển đời xô dạt, lòng ta chẳng sờn












Phan Thị Lang 


Không vào chùa mà như ni cô

Không dòng tu mà là soeur ngoài đời

Hồn trong, lòng thẳng, thảnh thơi

Hỡi cô giáo nhỏ bên trời Úc châu

Anh em xa nửa địa cầu

Những mong ngày gặp vơi sầu tha hương



Phan thị Cúc 


Qua Tây, phận gái theo chồng

Số trong duyên kiếp má hồng tha phương

Vành khăn cô phụ, không con

Giã từ cõi thế, cô đơn bên trời






Phan Minh Đức 


Cô Tám có mình em con trai

Cùng với anh vượt biển đến Mã Lai

Em chọn định cư sang bên Úc

Thân lập thân xây đắp tương lai




Ngọc


Gởi chút nhân duyên về cố xứ

Gởi tình huynh đệ từ tuổi thơ

Anh hàng xóm nhỏ quận Phù Cát

Có nhau từ đó đến bây giờ




Bảo Trâm


Đến San Jose lúc xế chiều

Gặp con trong quán đèn hiu hiu mờ

Ba má con đặt niềm mơ

Gởi ta nuôi hộ, chờ giờ hồi hương



Phò (Bảo Châu)


Mong chọn con làm con dâu

Tơ duyên không đạt, bể dâu lỡ làng

Ta vào con hẻm tan hoang

Ước mơ hồ dễ vẹn toàn trước trước sau








Đã qua tai nạn hiểm nghèo

Phước ân tiên Tổ bao nhiều đời rồi

Bình an cháu sống với đời

Với chị em, với những người lưu vong



















Bạn Tù Nguyễn Đình Chiến


Em tù hình sự được tha

Dẫn đường phụ giúp cho ta trốn tù

Vượt biên cùng.  Em qua Tây

Ta vào xứ Mỹ, ở đây cũng buồn

Bảo trợ em sang Houston

Anh em đoàn tụ, cùng lầm than chơi.













Thơ


Cảm ơn thơ ướm

Từ trong máu

Nhỏ xuống đời đau

Giọt đỏ au

















Thử Hỏi


Rồi đây dân Việt sẽ ra sao?

Mắt mẹ ngàn năm lệ tuôn trào

Trăm năm oằn gánh đời cay đắng

Bảy mươi năm xiềng xích lao đao





Tiễn chị Ngọc Dung D.C.


Chị đi, nhưng chị không đi mất

Chị Ngọc Dung ơi!

Ai rồi cũng thế thôi

Tâm chị tốt, người hiền như đất

Đất đời đời, hoa trái sinh sôi


Chị đi xin tiễn, khấn lời nguyền

Cõi vĩnh hằng, chị ngủ giấc bình yên

Hóa kiếp sớm, sẽ là bông hoa quí

Tỏa xuống nhân gian, hương ngọc tuyền


Xuôi dòng lưu lạc một con đò

Dẫu xác đã về với bụi tro

Mà hồn mãi đây cùng thân hữu

Ngọc Dung ơi

Xin tiễn người một bài thơ

Chào Em Tuổi Trẻ Yêu Nước


Chào em

Chào những can trường

Chào hoa yêu nước

Tỏa hương khắp trời

Quên an thân

Bỏ thảnh thơi

Xông vào gió cát

Sóng khơi chập chùng


Chào em 

Dùng bút thay gươm

Chém phường xâm lấn

Phạt quân nội thù

À ơi! Vọng tiếng mẹ ru

Ngọt dòng sông Hát

Chảy từ đáy tim



Tiếng Đàn Bầu, Tiếng Sáo

Tặng Bảo và Nam Phương

4/30/14



Nhói trong tim

Xoáy trong hồn

Thịt da tê tái

Nghe đê mê

Ngây ngất nhập trong hồn

Tiếng trầm đau, bỗng xót láy ngân dồn

Như xé, cắt ruột gan

Hờn vong quốc

Cả nòi giống Tổ Tiên như hiện về trước mặt

Âu Cơ buồn quay quắt nhớ đàn con

Tiếng hú Lạc Long

Dậy sóng Thái Bình Dương

U-uất vọng vang Trường Sơn trầm mặc

Sáo trúc, đàn bầu di sản nòi giống Việt

Hùng thiêng lưu truyền


Ngời âm điệu, mượt lời ca

Nhớ nước thương nòi

Con cháu khắp trời xa

Tấu khúc gọi trăm con từ trăm trứng

Cửu Long, sông Hồng, sông Lô, sông Đuống

Tiền, Hậu Giang nước nào chảy không về nguồn

Đàn sáo còn vang

Còn nòi giống sinh tồn

Còn có lúc quay về

Rộn ràng ngày hội mới

Tưởng sẽ chẳng còn cơ may nghe lại

Mà tiếng tiêu réo rắt bỗng vọng về


Độc huyền cầm nỉ non cả trời quê

Ta thấy lại non sông từ cung điệu

Thấy lại tiền kiếp ta










Dã tràng khẳng khiu chân yếu

Xây lâu đài trên thềm cát lao đao

Xây ước vọng mình đầu sóng cuộn, bể gào

Nên mãi thế, xác hồn luôn trôi giạt

Chìm xuống đáy sâu, ngậm nghe từng câu hát

Rồi bốc hơi, lãng đãng với mây trời

Từ tiếng đàn ngân, sáo vút chơi vơi

Ôi ta hóa kiếp lại

Xuống trần gian ngơ ngác sống








Nghe Độc Huyền Cầm

4/30/14


Tay khảy, tay mơn máu rướm vào

Dây rung theo vận nước lao đao

Đàn vang vọng tiếng trầm nhớ nước

Cung bậc lưu vong, khúc nghẹn ngào


Nghe như dậy sóng hờn sông Hát

Áo bào Trưng Nương ngậm ngùi trôi

Mê Linh loang kiếm hùng ngăn giặc

Cọc nhọn Bạch Đằng, sâu cắm sâu


Nghe như thôi thúc trống Tây Sơn

Tay níu, nhặt khoan thả dập dồn

Em gởi tiếng đàn vào hồn nước

Ta thả ta vào khúc đàn em







Lâu lắm được nghe độc huyền cầm

Âm vang lay động khúc Tiên Rồng

Như lời Tổ Quốc rền, réo gọi

Cháu con cùng gìn giữ non sông


Vọng tiếng tơ chùng cõi lưu vong

Gọi tìm nhau, liên kết những tiếng lòng

Hãy thả bổng trầm vào hy vọng

Để cùng không thẹn với non sông











Ừ Thôi


Ừ nhỉ! Mai đây mình hạt bụi

Bay vô cùng, lạc lõng cõi mênh mông

Phước họa nhân gian, may như rủi

Sang với hèn cùng nghĩa với không



Ừ nhỉ! Sáng nay mồng một Tết

Gió lay cành, giọt sương tan nhanh

Mây vất vưởng, nắng gầy y hệt

Lòng tha hương tựa rừng không xanh










Ừ nhỉ! Niềm vui như xác pháo

Góp bao che cho tiếng nổ dại khờ

Mệt bước chân ngược xuôi cơm áo

Hoa đăng ngập hồn từng đám ngu ngơ





Ừ nhỉ! Ngày sau như ngày trước

Bạn thật, bạn giả ..cũng bạn thôi

Ở tận cùng tôi niềm mơ ước

Nụ cười hòa chớm mãi trên môi

1/1/13







Nỗi lòng

New Orleans Dec 3, 2010


Ba giờ sáng hôm nay thức giấc

Mở laptop đọc thư em

Đêm mùa Đông quạnh quẽ

Như dài, rộng, lạnh thêm

Người và mặt đường thu nhỏ lại

Giọt âm thầm

Không chảy ra ngoài nhễ nhại

Mà trôi ngược vào lòng

Xúc động nhớ thương em

Bài ca ấy anh viết, hát đã 30 năm

Như bày tỏ, nhớ ơn

Người đã giúp anh lúc tội tù, hoạn nạn

Giá trị con người

Ở ý nghĩa sống

Nếu không công bằng với lương tâm

Sẽ ray rứt nhiều hơn

Và càng ray rứt khi không biết

Oán trả, ơn đền…

Bài ca này không thuần ý nghĩa yêu thương

Càng không phải viết

Từ cõi gió trăng

Ngoại tình lãng mạn

Mà chỉ dấu những gì đầy nhân bản

Cho dù dưới chế độ vô sản hay Tự Do

Và tình thương là thiên đường

Là cứu cánh

Là ước vọng, niềm mơ

Chớ không phải tuyên truyền búa lớn, dao to

Rằng độc lập, hạnh phúc, tự do

Của bọn người cộng nô vô sản

Độc lập mà nô lệ ngoại bang

Đem biển, rừng dâng bán

Tự Do mà bắt bớ, gông xiềng

Hạnh phúc sao

Người người bỏ nước vượt biên và

Chính nghĩa nào lại bịt mồm dân

Không cho nói


Từ ý nghĩa ấy, anh biết ơn người con gái

Dám bỏ kẻ thắng vinh quang bên mình

Ủng hộ người thất thế, tội tù bên kia

Lén lút giúp phương tiện cho tù vượt thoát

Nếu chúng biết được, vào tù là chắc

Và gia đình liệt sĩ, cách mạng của cô ấy

Sẽ khốn cùng

Viết như vầy không để cố biện minh

Việc anh đã làm

Không phải của kẻ vô tâm, bội bạc

Và chắc hẳn em cũng không muốn có một người chồng

Cằn khô tim, óc

Chỉ biết ích kỷ, an thân

Mà không nhớ gì ơn nghĩa trước sau

Thấy quanh mình lầm than khốn khổ

Mà không chạnh lòng quặn đau

Thấy đàn áp bất công

Mà co đầu, rút cổ

Chắc em sẽ phải hối hận

Khi ưng một người như thế


Phải không em? Người anh đã tin yêu

Có em, anh có hạnh phúc, bình yên

Dẫu số anh lúc nào cũng phải

Ngược xuôi, vẫy vùng tranh đấu

Dẫu đã mấy lần khốn cùng thất bại

Hồn xác lơ mơ, thương tích chập chùng

Cảm ơn đời

Cảm ơn em

Viết, nói nữa dẫu nhiều lần đã nói

Và như thế em là tất cả

Em chịu khó, nhẹ nhàng, chung sức, chung lòng

Em dễ thương và hiểu ý nghĩa hy sinh

Nuôi dạy con anh đàng hoàng

Không có cảnh con chồng, mẹ ghẻ

Chung sức với anh

Chia xẻ ngọt bùi

Lo lắng cho chồng, con

Chính là niềm vui

Không đòi hỏi

Tranh đua


Trông ngang, ngó dọc

Xứng đáng là vợ hiền

Đẹp người, đẹp nết

Nếu có kiếp trước

Có luân hồi

Thì có lẽ anh có căn tu

Nên cuối đời gặp, lấy em làm vợ

Dẫu xấc bấc, xang bang mà

Có em là êm ả

Nên đừng nghĩ rằng anh

Quá vô tình mà không biết rằng

Em đã hy sinh và

Yêu chồng con tha thiết

Không hiểu bao nhiêu bài thơ nữa

Anh viết

Mới thể hiện cho cùng

Anh hiểu và thương em





Nên lấy nhau gần 6 năm

Đêm, ngày, gần, xa

Chỉ có em là hình bóng

Xét lại xem có một ngày nào

Chẳng gọi phone, không trông ngóng

Công việc lo xong

Tức tốc lái xe về

Ngàn dặm đường xa lắc, xa lơ

Chồng chất đời anh đầy bất hạnh

Anh cố giữ con tim ấm nồng

Dù cuộc đời giá băng bạc trắng

Cố giữ tâm thăng bằng

Dù đời đầy bão tố, phong ba

Bao lần chán nản

Đã cố gắng vượt qua

Vì em và con là tất cả

Trong thơ em đã viết cho người, cho anh

Yêu cầu đừng hát bài ca ấy nữa

Ôi bài ca nhẹ nhàng như nỗi lòng

Người mang ơn đền trả


Mà thôi dẫu em có yêu cầu

Điều khó khăn hơn nữa

Anh cũng làm theo cho anh bình yên

Em và con tươi vui

Anh mới được nỗi mừng

Từ nay anh có đi đâu

Em hãy theo cùng

Để nhắc anh khỏi bước lung vô ý

Anh vẫn hiểu quí nhất trên đời

Chính là hiện tại

Bởi những gì qua đã qua rồi

Và ngày mai biết ra sao

Vì ngày mai chưa tới

Hạnh phúc không nhỏ, to, cũ, mới

Hạnh phúc có từ tâm ta, người ta bây giờ

Có từ cùng bước chân hướng tới

Một niềm mơ

Một mái gia đình bình yên

Ngập tràn tin yêu của anh, em và con trong đó

Anh đã có những gì quí nhất chính là em



Em thiết tha

Thông cảm

Dịu êm

Cho nên điều em đòi hỏi

Không chỉ để riêng cho em

Mà cho gia đình mình ấm êm, hạnh phúc

Đòi hỏi không xa vời, không quá sức

Mặc dù khó làm

Anh cũng sẽ làm được thôi

Có thể anh hiểu lầm

Điều trước kia anh hứa

Là khi nào có mặt em

Đừng hát bài hát ấy mà thôi

Nên người phương xa

Biết câu chuyện, yêu cầu

Anh khó nỡ chối từ

Và nghĩ rằng chỉ lập lại chuyện xưa đã cũ





Bây giờ rõ ràng

Em yêu cầu đừng trình bày bài hát ấy

Anh bằng lòng không làm nữa

Em tin anh đi!


Khuya ngồi đây viết thư này

Hồn anh chảy mực theo tay từng giòng

Không bằng lời, bằng cả lòng

Rằng bôn ba đã, giờ mong lúc dừng.













Tình Trăm Năm


Yêu em

Hồn ta thành sa di

Gặp nhau bên trời

Mỏi cánh chim bay

Sông chảy, biển hiền

Thu lá rụng

Mõ khuya, chuông dội

Lời niệm tụng

Ngân nga vọng động

Cõi đời không

Lời yêu thầm

Giữ trong tâm

Tình trao tay gởi

Vào trăm năm tình






Đành Thôi


Đành thôi thuở ấy ta khờ dại

Em biền biệt xa, ta không hay

Mênh mông cõi nào em có đợi

Chuếnh choáng một đời, lảo đảo say


Lãng đãng em về hình bóng cũ

Ta chèo queo trong vỏ phạm trù

Quay quắt ăn năn hòng tắm gội

Buồn về đều ở mỗi mùa Thu


Mang mang muôn kiếp ta vẫn nhớ

Kiều diễm dấu hài dẵm giấc mơ

Một đời chênh vênh bờ biển khổ

Ẩn hồn ta trong giọt lệ mờ




Tôi với Tôi


Tôi dìu tôi quanh nẻo đời

Ngửa hồn hứng những nụ cười đảo điên

Gầy vai gánh nỗi truân chuyên

Dài tay hốt mọi ưu phiền đổ đi


Chiều nay chênh vênh đứng với

Hồn tôi đang khóc cười

Ngày mai thản nhiên quay lại

Với nỗi lòng nguôi ngoai


Từng đêm lòng tự hỏi lòng

Long đong mấy, cuối cùng cũng thôi

Chào đời tiếng khóc nằm nôi

Cuối dòng tôi gợn sống dồi bể xa





Thả


Thả vào tâm một niềm vui

Tim dồn dập máu, nụ cười òa ra

Thả vô tay một cành hoa

Hương đơm, nhị tỏa tình xa hóa gần

Thả yêu thương, đếm vô ngần

Chờ mùa lên trái, ân cần, xum xuê

Thả yên bình vào cõi mê

Cánh chim lưu lạc xoải về cố hương

Thả vào chân một con đường

Tìm nhau đối mặt tỏ tường tri âm

Thả náo nhiệt vào âm thầm

Đêm đêm nghe vọng khúc trầm thế nhân

Thả nhân ái, thả tương thân

Nhập về đếm được bao lần ngẩn ngơ

Thôi đành viết gởi bài thơ

Không ai thèm đọc, dùng tờ giấy thôi

Gói bất đồng đem chợ trời

Mở ra bán lấy đồng lời đau đau


Đến và Đi


Người đến! người đến

Không đến luôn

Người đi, người đi

Không đi biệt

Kẻ ở quẩn quanh

Lúc vui buồn

Đời tựa lá trôi

Theo giòng nước


Người đi! Người đi

Không đi biệt

Người về! người về

Không về luôn

Cơ hồ chông chênh

Niềm tha thiết

Giọng lạc lõng nào

Len lén tuôn



Tự Hối


Không lẽ, bỗng dưng vô cớ

Ai đó gây sự với mình

Đôi khi nói, làm, không nhớ

Mới xảy ra chuyện bất bình


Trần gian vô thường thôi đấy

Mình chỉ là khách lữ hành

Ít, nhiều, có, không cũng vậy

Ngày kia như sương tan nhanh


Vô minh rơi vào chấp, ngã

Trái ý, giận hờn lẫn nhau

Sao nhỉ?! Mình không buông xả

Bắt niềm vui, xóa nỗi đau




Khi xảy ra chuyện tranh chấp

Đương nhiên phải có bắt đầu

Nếu một trong hai nhịn được

Bình yên đầy đôi mắt sâu


Đi tìm nguồn hạnh phúc thật

Là xả phiền muộn cõi đời

Không quan tâm chuyện còn, mất

Niết bàn trong tâm mình thôi


Khuya vắng, xét mình sám hối

Vướng mắc cũng có mình đây

Không hờn oán, gởi lời xin lỗi

Đời ta ơi! Nhẹ thả cánh bay


Thân, tâm ơi! Thôi rong ruổi

Tháng ngày tự tại, an nhiên

Miệng ta ơi! Thôi ít nói

Tịnh độ, may, bớt ưu phiền



Mưa Viễn Xứ


Ừ nhỉ!

Mưa buồn da diết đấy

Ta mỗi mình

Chậm đếm giọt sầu rơi

Lênh láng trong tâm

Ướt nhẹp cõi đời

Mưa viễn xứ

Mưa tả tơi cuối kiếp


Có nỗi buồn riêng

Em nào biết

Ta cùng ta

Khao khát một lối về

Mồ mả ông bà

Mút tận bên kia

Nhang khói lạnh

Tay lưu vong với. Khuất










Tư lự ta

Trời hiểu dùm ta khóc

Nước trời mưa

Hay nước mắt ta mưa?!










Khoảnh Khắc


Nắng sớm mai về reo cùng nụ biếc

Mây trên đầu khúc khích bước lang thang

Trong hồn gió vi-vu niềm luyến tiếc

Thuở quê xưa chưa rẽ nghé tan đàn


Hạt sương muộn cũng đành thôi tan vội

Đường thênh thang sao hẹp dấu chân về

Lời thề hẹn còn mấy ai nhớ nổi

Điêu linh, khốn cùng rợp bóng trời quê


Vác cuốc ra vườn đào tìm phần số

Thấy đời, thấy ta, củ đắng cơ hồ

Vội lấp lại cùng giọt mồ hôi đổ

Chênh vênh ta trơ đứng tựa cành khô







Ai còn thấy ai trong bóng mắt

Dìu long lanh theo nghê khúc tương phùng

Để dẫu chỉ là mơ trong khoảnh khắc

Người cùng ta theo quân tiến trùng trùng


Nắng chiều rụng trong hồn ta một nửa

Nửa bên kia ngơ ngác cuộc kiếm, tìm

Nhớ lối về xưa dài tay gõ cửa

Lối về đìu hiu cửa đóng im lìm


Hồn chín tới giữ điệp trùng luân lạc

Thân còn xanh, háo hức đợi đâm chồi

Dẫu lá úa lựa lần vàng ngơ ngác

Nhựa nguyên đầy chuyển động nhánh thân phơi









Lời ai gọi mơ hồ như huyền thoại

Huyền thoại có, không ở cõi xa xưa

Xa xưa quá làm sao hòng với tới

Vòng tay đời dài tựa giấc ngủ trưa


Người đó, ta đây chỉ đoạn đường ngắn

Sao như ngàn trùng, nỗi nhớ không tên

Giòng đời trôi, qua thác ghềnh mấy chặng

Đếm lúc nào với những giọt buồn tênh


6/1/14








Có Còn Đợi Nhau


Khi tôi về em không còn đợi

Áo hong phơi dậu mới nhà người

Tóc xanh đó thoảng mùi hương mới

Vẫy chào nhau, gượng nhạt nụ cười


Khi tôi về bóng theo tôi vẫn

Vẫn mình tôi với bóng xìu xìu

Đường làng hẹp, bờ tre xưa vẫn thế

Người nhìn ta, xa lạ đến thiếu điều


Khi tôi về em tay bồng, tay bế

Tóc mẹ gầy, trắng xoải cánh cò bay

Mẹ cố nhớ ra nhưng rồi không thể

Cháu là ai?! Về thăm nhà này?!










Giờ thăm gặp theo chân quay vội

Bước nặng nề, hồn trống tận góc trời

Lặng nhìn theo mắt người chợt cay, mỏi

Vài chiếc lá tre rơi hay nước mắt rơi


Khi tôi về, nghĩa là đi tuyệt tận

Lời muôn năm gởi đó cho người

Buồn quảy trên vai đời lận đận

Đi khắp cùng hòng kiếm một niềm vui







Ai Còn Đợi


Nanh vuốt thù

Lấp lánh

Khuất sau bóng

Hoàng hôn

Bầy chim non

Vỗ cánh

Khàn tiếng kêu

Hãi hùng


Quê nhà xa

Vời vợi

Bão tố vây

Chập chùng

Công viên ai

Ngồi đợi?!

Lá vàng rơi

Thủy chung


Đôi Lần


Tôi có lần

Phóc lên ngựa cầm gươm

Vì thế lệnh tôi oai ghê lắm

Em thời ấy ngọc ngà, lụa gấm

Rồi một ngày thất trận điêu linh


Ta có lần lỡ vận thất cơ

Không tránh khỏi bần hàn, cùng khốn

Em vì thế tưởng rằng ta khờ lắm

Buông rẻ lời rúng rảy. Buồn làm ngơ


Ta có lần mặc áo vá, chân không

Đi đứng ngại ngần, nói lời mộc mạc

Em như thể hững hờ, nhìn hướng khác

Ta đành ngơ. Là thế chuyện nhân gian




Cũng Thế


Đi hay về

Cũng thế thôi em

Như vầng trăng

Khi khuyết lúc tròn

Như biển sóng

Thảy đều là nước

Chuyện hợp tan

Như mây gió đồi non


Vui hay buồn

Cũng thế thôi em

Như hôm qua và

Ngày mai tình mình

Như hoa nở, hoa tàn

Mưa nắng

Chuyện một này

Một đời như trăm năm


Thỉnh Thoảng


Thỉnh thoảng xa nhau

Cũng cần lắm đấy

Gần nhau hoài

Có lúc hơi căng

Chẳng phải nhàm

Chút chút mà hơi chỏi

Chuyện chẳng ra chi

Cũng giận dỗi, cằn nhằn


Xa nhau vài tuần

Gặp lại như mới

Ai nói “nhất rượu ngà ngà

Nhì đường xa về”

Không thông thường đâu

Ấy chuyện phu thê

Trời đất đã ban cho như thế






Thu


Mùa Thu về, lá vàng rơi

Mùa Thu ta, rụng bên trời lưu vong

Thương chiếc lá,thấu nỗi lòng

Là, người xa cội, đều mong quay về

Lá nhớ cành, người nhớ quê

Thơ ta nhớ nẫu, vân vê điệu vần

Lá, ta đều có căn phần

Lá biết tan, thuở xác thân lìa cành

Ta đau điếng, từng khúc quanh

Và ta đâu thuở buồn tênh, nhớ người

Lá với lá, reo bên trời

Ta cùng em vẫn muôn đời bên nhau

Mùa Thu về, lá lao đao

Thu về ta cũng xanh xao, nhớ nàng



Mùa Thu Xót Xa


Ngồi một mình nhớ ngày xưa

Cười một mình, nhớ tuổi thơ

Tuổi thơ, ngày xưa nuôi lớn ta bây giờ


Ngồi một mình nhớ mùa Thu

Vàng lặng lờ, lá vàng rơi

Mùa Thu, lá rơi bốn mươi mùa Thu chới với


Mùa Thu nào lá không rơi

Lưu vong, buồn ray rứt nhớ

Quê cha xa lắc, xa lơ bên trời


Từng đoạn đường ngoằn ngoèo qua

Phẳng phiu, gập ghềnh, chông gai, sỏi đá

Nụ cười nào mùa Thu vỡ òa






Nghẹn ngào vui lệ trào ra

Còn cõi Thu vàng em và ta

Chiếc lá cuối Thu rơi la đà


Tình nào rơi cùng Thu

Chảy theo quê hương nghìn trùng xa tít

Còn lại đây ta và ta


Ngậm ngùi thương mùa Thu qua

Lòng nào chia cùng Thu xót xa

Ôi những mùa Thu xa nhà










Hạ Về


Có con chim đứng trên cành Hạ

Buông tiếng kêu thương nhớ quê nhà

Cành cong hứng dấu chân chim lạ

Bay về từ một góc trời xa


Hạ về nhớ quá lời ru mẹ

Kẽo kẹt à ơi! Tiếng võng đưa

Chim sâu kiếm mật tu cành khế

Hoa phượng đỏ rền vang, tiếng ve


Trường xưa ta nhớ tà áo trắng

Hở tí vạt hông, đẹp lạ lùng!

Em cười nửa mặt, che vành nón

Che chiếc eo thon bước theo cùng





Người ơi, còn nhớ mùa Hạ ấy

Tạm biệt nhau nhật ký ngày xanh

Hẹn hết mùa, trường xưa gặp lại

Hè sau ta đã bước quân hành


Hạ về ta nhớ thời binh lửa

Súng nổ, bom rền thuở chiến tranh

Sáng bình nguyên, chiều Trường Sơn mồ hôi đổ

Dọc ngang thắm tình huynh đệ chi binh


Nay cũng Hạ về, thân lữ khách

Nhớ mẹ, nhớ trường, nhớ người xưa

Nhớ lính, nguy nan mà hiển hách

Còn hơn lầm lũi chiếc thân thừa








Đông Về


Mùa Đông tuyết trắng vờn trên tóc

Ngoài kia sương khói phủ la đà

Mơ lúc hồn xanh, trong như ngọc

An nhàn quên bao cảnh đời qua


Chớm Đông lạnh đã về vội vã

Cành trơ trơ không, lòng xót xa

Thời gian không hề đợi ai cả

Thoắt bình minh, thoắt đã chiều tà


Xuân, Hạ, Thu, Đông đều lần lượt

Theo vòng quay, thay đổi chu kỳ

Xuân tươi, Hạ sáng, Thu vàng vọt

Đông lạnh lùng, buồn tựa thuở chia ly







Co ro vội gẫm lời khuyên thánh

Xả khoảng hồn không, xác trống không

À, mà xả hết, còn đâu sống?

Xả chuyện này, nhặt chuyện khác khá hơn


Đông xả lạnh lùng, phà hơi ấm

Xả bỏ đắng cay, thay ngọt bùi

Xả hận thù, đón bao dung, tha thứ

Xả tham, sân, si. Thảnh thơi vui












Thử Hỏi


Thử hỏi làm gì còn chữ nghĩa

Khi lương tri đã thành đống điêu tàn

Thử hỏi làm sao dỡ bỏ

Cuộc tình xây đài thánh trong tim

Thử hỏi làm sao khoanh tay đứng ngó

Đời bất công phô diễn triền miên

Tôi sẽ không phải là tôi nữa

Đó là khi tôi đã mất em









Mống Chuồn


Mống chuồn cong

Ửng góc trời

Con mèo đứng ngóng

Đuôi vời cong cong



Đâu Còn


Đã tim khô lốc

Không còn máu

Còn giọt nào đâu

Nhỏ cho người

Thất thểu chân xìu

Đường tranh đấu

Hồn đã trơ

Làm sao trẩy mầm tươi







Chờ Đến Thiên Thu


Cắn môi mấy bận

Lời phun ngược

Nuốt máu rỉ về

Ngậm ngùi riêng

Ước vọng ngoài tầm

Chưa với được

Chờ.  Dẫu thiên thu

Giấc mơ hiền






Nai Theo Bầy


Mùa Đông

Đường về Dallas

Mưa lác đác

Trời lạnh căm

Lá lưa thưa

Chưa rụng hết

Rừng lặng lờ

Nhánh vô tâm

Có con nai non

Dáo dác

Phóng theo lũ lớn

Đầu đàn

Tôi nghiệp nai con

Không thoát kịp

Vô tình xe cán

Nát tan

Nai non chết bởi theo bầy

Người lái xe buồn khó khuây dặm dài

Bỏ Nhau Rồi Ta Ở Với Ai

Cảm theo thơ nhạc Việt Phương


Đã nói ra lời nói thật

Ước vọng cùng rõ mặt nhau

Tình yêu không là trái mật

Khi dối gian gieo thảm sầu


Em đi mắt dù ngấn lệ

Cùng nụ cười gượng gạo tươi

Nếu anh không lầm, có lẽ

Xót tí thôi, con tim lười


Cùng tắm biển tình biến động

Cầm cập cắn răng, lạnh căm

Nhấp nhô theo từng con sóng

Lạnh theo tận đến chỗ nằm






Bước người sầu ngăn núi dựng

Triền đời đèo dốc nhô cao

Tiếng ai khuya gào vạnh vắng

Chặp chặp từng nhánh mưa rào


Chia nhau thừa mảnh địa ngục

Khát khao từng mảnh địa đàng

Đáy đời nhân sinh lúc nhúc

Mò tìm từng đóa yêu thương


Yêu nhau đã ấm một lần

Cùng bỏ than hồng thêm nữa

Sao?! Mắt nhìn nhau có lửa

Người đi rồi ai còn ai










Ngày Vui Thuở Ban Đầu

Tặng Anh Chị Em Hưng Ca


Đi qua con đường nhỏ

Đánh rơi một niềm vui

Nhân gian sao đành nỡ

Dẵm lên vỡ nụ cười


Tiếc thương không đành bỏ

Ngoái tìm, dù mong manh

Nụ cười không còn nữa

Đường dài. Chiều buồn tênh








Tôi cùng tôi tiếp bước

Tìm tôi tận kiếp nào

Mong về dâng Tổ Quốc

Cả xác hồn lao đao


Tiếng hát, đàn xưa đó

Còn đâu? Nay còn đâu?

Người ơi, người còn nhớ

Ngày vui thuở ban đầu













Nhịn


Quá khứ bầm dập, tương lai long đong

Hiện tại như mớ bòng bong

Rối rắm gian truân

Gỡ hoài, gỡ mãi

Khi hai chiều tranh cãi

Dường như em hiểu nhiều

Rốt cuộc còn mỗi mình em

Anh ù ờ tìm kẻ chen vào

Giận dữ từ em chụp xuống

Người sống trăm năm, sống vài ngày

Anh sống bằng hơi thở này thoi thóp

Lúc dỡ hơi nhau buồn bắt ngộp

Ai cố ngoi lên từ vũng nhân gian







Dường như mình

Yêu nhau hơn lúc gian nan

Khi rủng rỉnh bắt đầu nghĩ quẩn

Lúc bớt tảo tần mới dư giờ tranh luận

Tranh luận mấy lần

Anh mấy bận cầm bằng thua












Phủi Sạch


Phủi tay há dễ phủi tay được

Vẫn làng nhàng đi tới, đi lui

Đi tới, đi lui, chân trần mỏi mệt

Ngoái lại nhân gian, hít thở ngậm ngùi


Phủi tay lên núi cười với lá

Lá hóa vàng, nâu rụng lu-bù

Cơm áo phất phơ bay lả tả

Chợt ngồi xuống đời, đã thiên thu


Phủi tay, phủi rũ luôn cơm áo

Ôm một bầu thơ bay lên mây

Thơ chưa thoát, nặng nề bay chậm chạp

Khựng giữa ngàn khơi lưỡng lự đầy


Phủi tay, phủi sạch hạt bụi bám

Phủi tình, tiền, u-ám nhân gian

Thân tâm quên phủi ngục tù khám

Miễn cưỡng rồi thôi, lại cõi phàm





Truân Chuyên


Buồn cùng máu

Trở về tim đông đá

Mỗi tế bào

Cõng một nỗi oan khiên

Tim vỡ máu tan

Buồn bay muôn ngả

Tận cùng ta

Đứng hú

Đỉnh ưu phiền







Cùng Cả Đau Đau


Nụ cười sau lưng

Bàn chân trước mặt

Áng mây trên đầu

Chân thấp, chân cao


Sang, hèn, nhục, vinh

Số phần sắp đặt

Như tự bao giờ

Mình đã yêu nhau


Mình đã yêu nhau

Sao còn cự nự

Cự nự riết rồi

Cùng cả đau đau






Nắng Mai


Mỏi cánh chim bay cuối nẻo đời

Bóng che hồn phách lạc xa khơi

Nước theo hơi bốc ngược về cội

Sóng cuộn niềm đau bạc góc trời


Bát ngát rừng xa vàng lá rụng

Sương khô đeo nhánh khẳng khiu trơ

Mây tìm chốn đậu không hề có

Nước giận tay ai tát lên bờ


Mở lòng đỡ quả càn khôn rớt

Nghe nhẹ hồn chênh vênh cõi không

Nhớ về thuở ấy ngàn năm trước

 Ta với ta tay bắt, mặt mừng







Lên bờ ai nhận thuyền nang cũ

Đáy hồ bùn vớt nỗi niềm đau

Chạnh lòng năm tháng rong rêu phủ

Lũ cá trông theo vết đục ngàu


Cái thuở nhân ngư không bơi được

Lên bờ phơi vảy đợi đầu thai

Chợt ngộ bằng này nghìn năm trước

Ta chẳng phải người, là nắng phai








Cuộc Đời


Mời em vào nghe trường ca đời tôi

Trường ca hát hoài mỗi một lời buồn thôi

Thế hệ này là đầu tiên con cháu bỏ rơi

Đầu tiên vào nhà dưỡng lão

Đầu tiên lưu vong buồn thảm xứ người


Mời em vào nghe trường ca đời tôi

Trường ca tấu hoài mỗi một khúc sầu rơi

Thế hệ này là cuối cùng biết mẹ cha thảo kính

Cuối cùng biết đau nỗi đau chim Quốc

Cuối cùng nhớ quê hương xa khuất bên trời


Đời người tựa như giòng sông

Uốn khúc đục trong hững hờ ra biển

Giữa mênh mông chờ hơi bốc về nguồn

Làm mẹ cha như giọt lệ xuôi tuôn

Nào ai trông chờ các con báo đáp

Chỉ mong đừng ai trách móc

Chỉ mong chúng đừng làm ngơ mỗi lần gặp


Ôi! trường ca lòng cay muối xát

Ruột cắt ngàn đao

Trường ca nghẹn ngào

Nhân sinh dâu bể

Xác hồn xanh xao

Một đời lao đao

Trường ca không đổ nát

Trường ca muôn thuở gào

Để cháu con thấu được

Những nỗi lòng quặn đau

Những người xa Tổ Quốc

Xa nơi cắt rún, chôn nhau

Xa lẽ thường nòi giống Việt

Đời đời đùm bọc nhau

Trường ca cuối cùng vì bắt đầu

Cho thế hệ này thôi

Trường ca đời tôi





Ném Bỏ


Ném ráo trọi

Trái chiến tranh

Về hư không

Cho nhân gian

Hòa bình nở

Hoa trong lòng




Thả


Tôi thả xác hồn bay muôn nơi

Chỗ nào cũng gặp em ở đó

Hồn xác bắt tim tôi rong chơi

Rồi dừng lại trao trọn em tất cả




Truy Cập


Truy cập buồn ta tự thuở xưa

Buồn ta vẫn vậy đến bây giờ

Buồn ta thường đứng trên đầu núi

Hú từng tiếng dài vang ngẩn ngơ


Truy cập tình ta tận thuở xưa

Tình ta vẫn vậy đến bây giờ

Tình lung linh mãi trong hạt rượu

Uống vào gân cốt bỗng nở hoa


Truy cập đời ta tận thuở xưa

Đời ta vẫn vậy đến bây giờ

Đời ta là cánh chim phiêu bạt

Xoải rã rời giông gió, nắng mưa





Ngàn Sau


Ngàn sau cây cỏ không còn nữa

Biển thành đồi, đồi hóa ra sông

Em và anh biến thành con suối nhỏ

Róc rách trăm khe hóa thành dòng


Ngày sau năm tháng dừng lại đợi

Tiếng người vang lại giữa thinh không

Trăng thôi sáng, mặt trời thôi chói

Người là rong rêu, rong rêu thành đồng


Ngày sau mây trắng đông thành đá

Đá tảng rơi khơi nhẹ như bông

Biển khô đợi gió phơi triền lạ

Em và anh rồi cũng hóa mênh mông


Ngày sau cũng giống như ngày trước

Ta với ta vẫn thế, vô cùng

Ta với ta cõi này, cõi khác

Tất cả đều mỗi một cõi chung

Nhật Nguyệt Đôi Bờ


Đưa hai tay cao

Lồng lộng trời sao

Đôi vầng nhật nguyệt

Nhật nguyệt hiện khuất

Mẹ Cha nơi nao


Tròn khuyết bể dâu

Người đi biền biệt

Ẩn trong tịch diệt

Trầm vết luân hồi

Từ đâu, về đâu


Thoát họa nhân sinh

Tìm thấy lại mình

Từ muôn kiếp trước

U-minh thấu được

Hồn thiêng vô hình






Nhân thế vô thường

Họa phước khôn lường

Nhân sinh xả oán

Vô lượng yêu thương

Tránh họa tai ương

Tránh ngày tuyệt diệt


Gẫm lượng công ơn

Hải hà phụ mẫu

Nỗi lòng ai thấu

Chữ hiếu không tròn







Bài Thơ Không Nghĩa

Viết trên máy bay về Dallas


Như gió, như mây, như mưa

Như vắng lời ru trong nắng trưa

Như thoảng một lời kinh vọng động

Như hồn trầm lắng, ngược ngàn xưa


Như người, như em, như ta

Như nhân gian ngụp lặn cõi ta bà

Như bàn tay nhỏ che trời rộng

Như đã tìm nhau ngàn kiếp qua


Như tình, như tiền, như mơ

Như viết tặng ai một bài thơ

Như nghĩa là không thơ, không chữ

Như chẳng vui buồn, như tỉnh bơ




Như khóc, như cười, như ca

Như đưa tay hái một cành hoa

Như suối về sông, sông về biển

Như ta rồi cũng lại gặp ta


Như em trong lời ca dao

Như nhặt, như khoan ửng má đào

Như áo ba tà ôm eo nhỏ

Như guốc mộc che nón quai thao


Như ta trọn một kiếp loay hoay

Như phù du, như trăng khuyết đầy

Như sóng mơ ngày về lại đáy

Như cuối cùng tay xuôi bàn tay


Như lời đùa vui cõi không

Như ai đem muối xát trong lòng

Như tâm tư chưa một lần xao xuyến

Như yêu là muôn thuở chờ trông





Những Bài Thơ

Đã

Phổ Nhạc

Hát Cho Tuổi Trẻ Phương Uyên, Nguyên Kha


Tiền kiếp quay về 

Từ Đống Đa, Bạch Đằng

Xuôi dòng sông Hát

Uy linh tiền nhân

Phảng phất khắp sơn hà

Em đứng hiên ngang

Giữa cộng thù bán nước

Nanh vuốt hung tàn

Cắn xé nát quê cha

Máu em đã đổ

Giòng Lạc Hồng xót xa

Gậy gộc giáng xuống

Tự Do sẽ nở hoa

Tuổi trẻ ơi! Tuổi Trẻ ơi!

Ơi Phương Uyên! Ơi Nguyên Kha!

Đứng lên! đứng lên!

Đồng bào ơi, đứng lên!

Quyết, ta quyết 

không thể làm ngơ

Mất nước non

Cộng nô phải hết

Toàn vẹn giang sơn

Việt cộng phải mất

Việt Nam mới còn

Bước theo bước anh hùng

 tiền nhân nước Nam

Đánh, ta đánh 

tan phường cộng nô bán nước non

Toàn dân một khối

Già trẻ xông lên

Giữ gìn bờ cõi

Việt Nam muôn năm


Viết lúc 7g sáng ngày 10-5-2013 tại New Orleans

cảm xúc khi  đọc bản án của Phương Uyên, Nguyên Kha













Sơn Hà Nguy Biến


Giặc Tàu chờ tràn qua biên giới

Giặc Tàu phục vây dọc biển khơi

Giặc tràn lan ngang tàng khắp nước

Tổ Quốc ơi! Mẹ Việt Nam ơi!

Từ ngàn đời Tiên Rồng nòi giống

Tổ tiên dân Nam anh hùng chết cho nước Nam

Lúc bọn phản quốc đem sơn hà dâng bán

Là lúc giặc ngoài xua quân xâm lăng

Mẹ Việt Nam đau đau ngàn năm

Mẹ Việt Nam đau đau trăm năm

Mẹ Việt Nam đau đau bảy mươi năm

Mẹ Việt Nam đau đau như cắt trong lòng

Còn đâu Nam Quan, Bản Giốc , Hoàng Trường Sa

Còn đâu quê hương nòi giống dân Việt ta

còn đâu còn đâu, đất nước ta không còn là của ta

Người Việt Năm Châu, mau cùng nhau

Nhìn về quê hương chia sớt đau thương 

Thề cùng đứng lên quyết dành lại quê hương

Mơ Về Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình

Bài hát




Đêm qua trong giấc mơ về

Đàn hát cùng em trên đồi nhân thế

Tiếng đàn rung lên trong bóng đêm quạnh quẽ

Xích xiềng khua vang Hà Nội, Huế, Saigon


Đêm qua trong giấc mơ về

Cùng nối vòng tay mỗi già đôi trẻ

Ngước nhìn quê hương, nước mắt sao nhiều thế

Đói nghèo, lao lung, nhiều em bé ăn xin trên đường


Khi đã biết em là ai

Là khi em, thù đã bắt còng tay

Khi đã biết em là ai

Là khi em đã lao lung, tù đày





Khi đã biết em là ai

Mười năm tù vì yêu nước cho cả hai

Khi đã biết em là ai

Em hiên ngang chống xâm lăng, và phường bán nước tay sai


Đêm qua tan giấc mơ buồn

Sầu đời lưu vong lang thang cùng khắp

Một ngày kia nước non đã mất

Sầu nhục ta chất ngất đến bao giờ 

























Tự Do Chẳng Ai Cho Không



Tự Do có được

Đôi khi phải trả bằng máu, bằng xương

Tự Do có được

Phải đổi bằng xiềng xích, cùm gông

Tự Do có được

 Vì những anh hùng hy sinh nằm xuống

Tự Do, chẳng có ai cho không


Độc lập không thể có

Khi khiếp nhược, thờ ơ

Độc lập không thể có

Trong chế độ bán nước, hại dân

 Độc Lập không thể có

Khi đã là cộng sản tam vô

Độc lập không thể an thân, chần chờ, xin ai cho






Muốn độc lập, tự do

Phải đập tan phường bán nước

Muốn độc lập, tự do

Phải tiêu diệt xâm lăng

Độc lập, tự do

Không năn nỉ, van xin

Độc lập, tự do

Chẳng có ai cho không








Ngày Đã Tới

Ngày 14 tháng 5 năm 2014

Đồng bào Hà Tĩnh đứng lên


Lửa đã cháy, máu đã đổ

Sinh viên, ngư, nông, công nhân

Đang vùng lên giành lại cơ đồ


Người bước tới, người ngã gục

Máu xương anh hùng nhỏ xuống

Để ngàn năm toàn vẹn cõi bờ


Lời tổ quốc gọi rền sông núi

Đồng bào ơi! Trong ngoài đứng lên

Đánh thù trong, giặc ngoài giữ nước

Để Việt Nam muôn năm vững bền

Người người hãy đồng lòng xông tới

Mình Việt Nam con Rồng, cháu Tiên

Máu hùng anh muôn đời bất khuất






Tổ quốc lâm nguy cùng hy sinh đứng lên

Từng giọt máu giống nòi nhỏ xuống

Tựa từng ngàn dao xuyên vào óc, tim

Nỡ nào ngơ, lòng nào không xót

Hãy đứng lên để không thẹn với tổ tiên.











Noi Gương Quang Trung

4-14-14

Bước theo cùng, tiến tới cùng

Hiên ngang cùng Quang Trung anh hùng

Non nước quê nhà, chạnh lòng xót xa

Bạo quyền tay sai, giặc Tàu lại toan

Xâm lấn nước ta


Giống Lạc Hồng, chết không sờn

Ta chung lòng, chung vai chống hung tàn

Xương máu đâ đổ, của tổ tiên ta

Từ rừng Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Đống Đa


Đứng lên hỡi giống nòi Rồng Tiên

Noi gương Tây Sơn anh hùng Quang Trung

Đứng lên hỡi dân tộc Việt Nam

Theo gương cha ông giữ gìn non sông







Hà Hồi, Ngọc Hồi còn đó

Phú Xuân, Đống Đa còn đây

Quân Thanh xâm lăng

Tan thây và trốn chạy

Lũ Hán, Minh, Thanh

Hãy nhớ bài học này










Tan Vỡ

Lời bài hát


Thôi đi em! Giọt đau đã đầy

Còn bao lâu trong cuộc đời này

Cạn cùng lời nhau, lòng nào đành nỡ

Rót thêm sầu vào, làm sao uống nữa đây!


Xưa bên nhau, nhìn nhau mắt hiền

Giờ chua cay mây mù che kỷ niệm

Bẽ bàng nhìn nhau, niềm đau đổ lửa

Đã xa rồi còn hơn thua nữa chi em


Nắng sớm, mưa chiều, cuộc đời nhiều giông tố

Nhức nhối lời trao, nào ai muốn bao giờ

Không nhịn được nhau, thôi đành tan vỡ

Thôi xin nhẹ nhàng như gió thoảng, mây đưa









Mai anh đi, rời xa chốn này

Bàn chân quen gai chông đường dài

Cả đời lao đao, bao lần lầm lỡ

Thuyền không bến bờ, neo biết thả đâu đây?!




Khi Đồng Minh Phản Bội

Lời bài hát




Khi đồng minh phản bội

Là lúc công chính mù lòa, lòng nhân tăm tối

Khi đồng minh tháo chạy

Là lúc thế giới tự do nhức nhối, ô nhục

Khi chiến sĩ cộng hòa buông súng

Là lúc Saigon mất tên

Là lúc người Việt đảo điên

Là lúc hãi hùng, tan nát, vượt biên

40 năm dài dường như mới đó

40 năm đã nhìn rõ bạn thù

40 năm dưới nanh vuốt hung tàn, giam cầm, bắt bớ

Cả nước đọa đày, xiềng xích, âm u

40 năm ai còn, ai mất?








Ai bán biển, bán rừng, bán đất tổ tiên?

Ai xuất cảng lao nô, cướp đất dân oan, ép gái bán mình?

Ai đàn áp người yêu nước đòi tự do, công chính?

Ai? hỏi ai hèn với giặc, ác với dân?

40 năm tăm tối rồi

Và còn bao lâu như thế nữa?

Hỡi Việt Nam!!!


Đánh Giặc Tàu

ủng hộ biểu tình 9/12/12

tại Hà Nội


Tổ quốc lên tiếng gọi

Lời rền vang như sấm

Hỡi nòi giống Rồng Tiên

Khởi từ một buồng trứng

Mẹ Âu Cơ đang chờ


Máu cha ông đã đổ

Để gìn giữ cõi bờ

Đành lòng nào ta nỡ

Nỡ lòng nào làm ngơ


Đứng lên cùng đứng lên

Bước chân đều bước chân

Tổ Quốc đang chờ những người con

Xông lên phía trước





Đánh đuổi giặc Tàu

Đập tan quân bán nước

Cùng giữ yên cõi bờ


Đứng lên thề đứng lên

Sát vai kề sát vai

Tổ quốc đang cần

Những người con xông pha cứu nước

Đánh dẹp cường quyền





Cùng Một Mẹ Việt Nam

12/8/2012


Mình cùng một bọc trăm trứng nở trăm con

Dẫu em lên non

Anh xuôi ra biển cả

Mẹ Việt Nam đau

Non sông nghiên ngả

Cùng gọi nhau vượt sóng cỡi voi về


Tổ Quốc ơi! Tổ Quốc ơi!

Chúng con nguyện giữ lời thề

Noi gương Triệu, Trưng

Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Quang Trung

Tổ tiên bao đời

Từ Đinh, Lê, LÝ, Nguyễn, Trần

Bao lần đập tan phường bán nước

Đánh, đánh quân Tàu xâm lược

Giữ gìn bờ cõi Việt Nam





Cảm Nghĩ


Khi Đọc Thơ


Huỳnh Công Ánh


Một chút thơ nhạc của Hưng ca Huỳnh Công Ánh


Kathy Trần


1954, từ khi VC nắm chính quyền ở miền bắc, những đảng phái, phong trào và nhân tài yêu nước bị đàn áp tàn nhẫn, tiêu diệt không thương tiếc.  CS đưa ra những chính sách bắt chước Nga,Tàu tiêu diệt trí thức qua Nhân văn giai phẩm.  Tiêu diệt giá trị gia đình, văn hoá và xã hội qua “Cải cách ruộng đất, cách mạng văn hoá”.  Họ dùng chế độ tù đầy, tem phiếu, hộ khẩu, xiết bao tử đưa con người ngang hàng thú vật để họ chỉ lo lắng, chật vật vì miếng ăn, không còn nghĩ tới những gì cao thượng hay chống đối. Từ đó, CS đã thành công trong việc đẩy lùi miền bắc 50, 70 năm so với miền nam.  Chưa kể trong suốt thời kỳ đó, nền văn học với các văn nghệ sĩ tài hoa miền bắc còn lại hoàn toàn chết đứng, không có sáng tác nào ra hồn. 

 

30 tháng 4, 1975, Cộng Sản chiến thắng và bắt đầu tàn phá miền nam.  

Người miền nam VN như bầy chim gặp bão, tan tành khắp chốn, chịu tù đầy nghiệt ngã hay lao ra biển tìm tự do.  

Trong ngày mở đầu cho những trang sử tối đen cuả con dân và tổ quốc VN, như hầu hết những người dân miền nam, HCA còn ngây thơ, bàng hòang tự hỏi:

Bụi sau chinh chiến quay về đất 

Ta sau chiến chinh về đâu đây?


Câu trả lời là tử hình, là nhà tù cải tạo, là xếp hàng, tem phiếu, hộ khẩu, đổi tiền, đánh tư sản, đuổi đi “kinh tế mới”... Lúc đó, tiếng thơ của HCA mới là tiếng thét uất hận cuả những trái tim bị bứt lià khỏi thân thể mẹ :

30 tháng 4 đen 

Ngày giao hàng của phường buôn dân bán nước

30 tháng 4

Ngày tủi hờn của người vì tự do tranh đấu. 

Ngày tổ quốc vấn khăn tang

Ngày Việt Nam trong đêm đen. 

Ngày dẫn cuộc đời anh đi vào nhà giam

(Vì sao anh buông súng)


Nỗi đau lớn nhất cuả người lính chiến không phải là cái chết, là thương tàn mà là cái nhục không chiến mà bại, là thúc thủ chịu cảnh tù đày, là mở mắt nhìn đất nước, con người bị đưa dần vào đêm tối.

Vết thương đó dường như không thời gian nào hàn gắn được và giấc mơ một ngày phục quốc luôn ám ảnh nhà thơ không nguôi cho tới khi sức tàn, tóc bạc:

Triệu bước tiến dẵm mái đầu bạc trắng

Quên sức đã tàn, thót lên ngựa cầm gươm…

Cờ chính khí te tua lồng lộng gió

Giục trong hồn kèn phục quốc âm-âm

Chí lớn, tuổi già, trống kèn ngược điệu

Yêu quê hương đành nuốt nhục nhớ sơn hà

(Thân Với Bóng Cùng Chung Mối Nhục)


Sau những năm dài tù đày vô cùng phi lý và nghiệt ngã, HCA vượt ngục, vượt biên và may mắn sang được xứ tự do để tiếp tục dùng lời ca, điệu nhạc chống lại chế độ Cộng sản đang tiêu diệt con người và đất nước Việt. 

Cuộc chiến nơi tha hương, tuy thế, mang rất nhiều khó khăn và đầy chua xót vì chính bạn đánh … bạn hay bạn đánh… ta!

35 năm gẫm lại cho cùng, thù trơ đó, bạn nản lòng ẩn dật

Đánh đấm nơi đây rủi thua không ai chết

Nên hung hăng, điên tiết đánh đến cùng

Quên mất rằng chỉ mỗi kẻ thù chung 

Là cộng sản vô thần, độc tài, bán nước

(Thà chấp nhận nhục nhằn).


38 năm trôi qua, bao lớp người đã chiến đấu và đã ra đi! 

Lớp trẻ ngày xưa ra hải ngoại vẫn chiến đấu khi mái đầu điểm bạc! 

Bao trẻ thơ đã sinh ra, lớn lên và trưởng thành, và cả những người đã từng chịu đau khổ đắng cay bên kia bờ Bến Hải, nếu may mắn, đã ở hay đến được bờ bến tự do đều góp phần tranh đấu: Những bài ca, tiếng hát cuả Nguyễng Đức Quang, Huỳnh Công Ánh, Việt Dũng, Nguyệt Ánh, Trầm tử Thiêng … Những tác phẩm Đại học Máu, Thép đen, Hoa tự do, Vượt thoát… thơ Hà Huyền Chi, Trần Trung Đạo… vv… vạch trần bộ mặt chế độ Cộng sản vẫn được nghe, được xem và được cảm. 


Tuy nhiên, trên miền đất hình chữ S mang tên VN, một điều không đổi:  Vẫn độc tài, đảng trị và thêm nhiều điếu ô nhục:  Bán nước, buôn dân.  

Theo quy luật cuả lịch sử: Nơi nào có áp bức, nơi đó có đấu tranh.  

Thêm vào đó, những tiến bộ thông tin khoa học làm bức màn sắt ngày càng mong manh, không còn che dấu được sự thật dù Cộng sản đàn áp, thủ tiêu, bỏ tù  nhũng nguời chống đối nhưng những phong trào phản kháng trong nước tuy lẻ tẻ vẫn liên tục nổi lên, chống lại chính quyền tàn ác với dân nhưng lại hèn nhát với kẻ thù Trung Cộng. 

Lớp người già qua đi, lớp người trẻ đứng lên chống đảng qua những blocs, những bài ca, những biểu tình dù bị tù đày, đàn áp dã man, tàn bạo.


Ba mươi tám năm dài trên đất tự do, HCA vẫn mang một trái tim, một tấm lòng miệt mài tranh đấu.   Anh đã bắt đầu lại từ con số không và vẫn mang nặng tấm lòng trăn trở về vận nước.  Không còn cây súng trong tay, anh dùng lời thơ, cây đàn, tiếng hát làm vũ khí.  

Anh nói về chính nghĩa của những người VN bỏ nước ra đi:

Là người Việt Nam, máu tiếp máu luân lưu

Từ cha ông đến đời đời con cháu

Giòng máu hùng anh, bền gan tranh đấu

Đánh đuổi giặc ngoài thù trong

Xin đừng nói chúng tôi lưu vong

Xin đừng nói chúng tôi tha phương, 

Vì bát cơm, manh áo

Mà vì một ngày về Làm rạng rỡ Việt Nam

(Khúc Quanh Lịch Sử)


Không quên bạn bè của những ngày tù tội, anh sáng lập Tổng hội cựu tù nhân chính trị, thành lập phong trào Hưng Ca VN với những sáng tác được biết nhiều như: Quang Trung anh hùng, Vì đâu anh buông súng, Tôi là người tù khổ sai không bản án…vv.

Tiếng hát mang lửa từ tim anh về quê hương góp phần tranh đấu chống bạo quyền:

Hãy hát cho người, Hát cho tôi

Âm vang thôi thúc, Giục liên hồi

Gửi gió Tự Do, Về quê mẹ

Thương nòi, nhớ nước, Dạ khôn nguôi

(Gởi Gió Tự Do Về Quê Mẹ)


 Anh ca tụng những tấm lòng nhi nữ sắt son với mầu cờ đất nước: 

Hai mươi lăm năm rồi, em vẫn là em gái nhỏ

Mà Triêu Trưng linh hiển hiện trong hồn

Vững bước dưới bóng cờ vàng ba sọc đỏ

Ước vọng giống nòi An lạc, quang vinh

(Hưng ca)

Đất nước còn độc tài, tổ quốc còn bị xâm lăng, lòng anh, như lòng bao người con dân yêu nước, còn đau nỗi nhục chung khi thấy chính bạo quyền ra tay đàn áp dân mình bày tỏ lòng yêu nước!

Nỗi hận bó tay không thể đứng lên chống xâm lăng, lòng yêu nước, nỗi ô nhục …chính là ngọn lửa để người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước tiếp tục đấu tranh chống bạo quyền Cộng Sản:

Sáng nay tim nhói, ruột như cắt

Dân Việt vùng lên chống xâm lăng

Bạo quyền Việt ra tay đàn áp

Ôi đau thương, ôi ô nhục vô ngần

Ngồi yên không thể ngồi yên được

Non nước đau, người cũng oằn đau

Tổ quốc nhục, con dân đều thảy nhục

Khắp năm châu, dẫu lưu lạc phương nào


(Không thể ngồi yên - xem biểu tình chống xâm lăng tại Hà Nội và Saigon ngày 9/12/2012.)

Nghe tin Phương Uyên và Nguyên Kha trong nhóm Tuổi trẻ yêu nước bị kết án vì “dám” tranh đấu chống Trung Cộng để bảo vệ tổ quốc, trên chuyến bay tới San Jose để tham dự buổi sinh hoạt “Tất cả cho tuổi trẻ Yêu nước” anh đã xúc động viết bản nhạc “Hát cho tuổi trẻ yêu nước”:

“Tiền kiếp quay về từ Đống Đa, Bạch Đằng, xuôi dòng sông Hát.

Uy linh tiền nhân phảng phất khắp sơn hà,

Em đứng hiên ngang giữa Cộng thù bán nước, nanh vuốt hung tàn cắn xé nát quê cha!

Máu em đã đổ, dòng Lạc Hồng xót xa, gậy gộc giáng xuống, Tự do sẽ nở hoa.  Tuổi trẻ ơi, tuổi trẻ ơi, Ơi Phương Uyên, ơi Nguyên Kha…”

Anh thúc hối làm sôi lòng người yêu nước mong đem thân bảo vệ sơn hà:

“Đứng lên, đứng lên đồng bào ơi, đứng lên quyết ta quyết không thể làm ngơ, mất nước non. Cộng nô phải hết, toàn vẹn giang sơn.  Việt Cộng phải mất, Việt Nam mới còn.

“Bước theo, bước theo bước anh hùng tiền nhân nước nam!

Đánh tan, đánh tan phường Cộng nô bán nước non.  Toàn dân một khối, già trẻ xông lên giữ gìn bờ cõi, Việt Nam mới còn…” (1)

Ngoài con người đấu tranh, HCA vẫn mang hồn lãng mạn, mang mang nhớ tiếc thời thơ dại:  

“Mình luyến tiếc vô cùng thời đi học

Tiếc thời em guốc mộc thẹn bước nhanh”

Và trong cuộc sống nổi trôi, gai góc, vẫn còn niềm an ủi từ người tri kỷ:

“Trắng quá đổi, trắng hơn đời bạc trắng

Cây còn trơ huống hồ kiếp con người

Giữa tuyết giá, may còn vòng tay ấm

Ân cần em, nhung gấm đắp che tôi.”

(Bốn mùa) 

Chiến đấu, lãng mạn, hào hùng nhưng HCA cũng không dấu những nụ cười hóm hỉnh rất đời thường:

“Hồn lên núi, Xác xuống đời

Ôm ngang eo ếch, Rã rời xác thân

Sáng chia tay, Tối sáp gần

Cái này được, Chuyện khác toàn cãi nhau.”

(Mấy điều hợp)

Hay:

“Sáng cho con bú, con chê

Bập bẹ nói: hôi thuốc rê quá hà.

Úi chà, Sao lạ vậy cà!

Thôi để mẹ hỏi ông già mày coi!”


Ghi chú:

Huỳnh Công Ánh, Việt Phuơng, Thu Sương và Lữ Anh Thư hát trong buổi tranh đấu “Tất cả cho tuổi trẻ Yêu nước” ngày 18/5/13 tại tiền đình quận hạt San Jose, CA.






















ĐỌC TẬP THƠ 

“ƠN NGHĨA TRÙNG TRÙNG”      

của Huỳnh Công Ánh


     Sau khi cho ra mắt hai tập thơ là “HẠNH NGỘ BÊN TRỜI” và “QUẲNG GÁNH LAO ĐAO GIỮ NỤ CƯỜI” Huỳnh Công Ánh lại ra mắt thêm tác phẩm thứ ba là “ƠN NGHĨA TRÙNG TRÙNG”. Tập thơ với gần 150 bài thơ. Có bài chỉ ngắn gọn 2 câu. Có bài dài hơn 13 trang. Chỉ có khoảng hơn chục bài theo thể thơ “lục bát”. Còn lại tất cả là thơ tự do, phá thể…


     Người ta thường có ấn tượng là thi sĩ có một cuộc đời khác biệt hẳn với cuộc đời của thế nhân thường tình. Thi sĩ nhìn thấy những đối tượng mà đôi mắt trần tục của những con người thường không thể nhìn thấy. Nhiều người còn thần tượng hóa thi sĩ, cho thi sĩ là một kẻ vì phạm tội nên bị phát vãng từ trên thiên cung xuống dưới dương trần. Thật ra thi sĩ cũng chỉ là một con người bình thường và đối tượng của thơ, chất liệu cấu tạo nên những vần thơ không phải từ trên trời cao rơi xuống mà chính là những vui buồn, sướng khổ, những ước vọng, những ơn cao nghĩa nặng trong cuộc đời này mà thôi. Huỳnh Công Ánh đã chỉ ghi lại trung thực những điều đó dưới con mắt thi nhân.  


     Trong bài thơ “Ơn Nghĩa Trùng Trùng” Huỳnh Công Ánh viết những lời tha thiết để trước hết là ghi nhớ công ơn của hai đấng sinh thành: 


          “Ơn cha mẹ

          Ơn đất trời 

          Ơn người đã dựng nên tôi xác hồn

          …

          Ơn tuổi thơ

          Tiếng ru hời

          Võng đưa lời mẹ à ơi ngọt ngào

          Da vàng

          Xương trắng

          Máu đào

          Cơm cha, sữa mẹ, tôi cao lớn dần.”

     

     Rồi ghi nhớ đến công ơn của Thầy giáo và Cô giáo nơi mái học đường:    

   

          “Mái trường

          Thầy, cô ân cần

          Dạy tôi hiểu thấu nghĩa ân muôn trùng…”


     Kế đến là tình nghĩa với vợ con, với gia đình và bà con họ hàng thân thuộc: 

             

          “Ơn vợ hiền

          Ơn ân tình 

          Ơn ấm nồng mái gia đình dung thân

          Ơn các con

          Ơn họ hàng

          Ơn sâu, nghĩa nặng tôi mang đời đời.”

          …

          “Ơn nghĩa sâu

          Mong đáp đền

          Ơn em tuyệt diệu nên duyên vợ chồng

          Ơn yêu ai

          Yêu hết lòng

          Ơn nguyền đi hết đường trần bên nhau…”  


          Có lẽ chính bản thân mình bị thiếu thốn vòng tay nồng ấm của cha mẹ từ hồi còn nhỏ tuổi nên thi sĩ bộc lộ tình thương con nồng nàn:


          “Biết mấy thương con, con có biết 

          Đời ta rời cha mẹ thuở lên năm

          Nên lơ láo cả đời khao khát

          Chút thiêng liêng ấm áp mái gia đình.”                                  

                                       

          Trong một số bài thơ khác Huỳnh Công Ánh đã đặc biệt ghi nhớ ơn nghĩa với vợ mình một cách rất nhiệt tình:


          “Ơn em trong hồn anh cùng khắp

          Hồn anh có bao giờ chết đâu…”

     

          “Tạ ơn em đã 

          Cùng tôi ấm nồng…”


          “Xuân Hạ

          Thu Đông

          Em mãi

          Trong lòng…”


          “Anh ngồi đọc chuyện phu thê

          Ở trang kết cuộc toàn đề tên em…”


          “Nhìn em con mắt trổ mầm xuân…”

                                   

          “Em mới là thi sĩ

          Vì từ em

          Anh đã viết thành thơ…”


     Đọc những dòng này một thân hữu của thi sĩ là Việt Phương đã phải thốt lên: “Chao ôi! Nịnh đầm khéo quá, chắc chúng tôi cũng phải mượn những câu thơ này để tán tỉnh bà xã ở nhà.”


     Huỳnnh Công Ánh cũng không quên hình ảnh thân thương của các người bạn của mình. Tưởng niệm một bạn tù, từng là phi công, bị chết trong trại tù cộng sản thi sĩ viết:  

          

          “Trên mắt, trên môi anh

          Đã bầm tím vết căm hờn

          Hai tay buông xuôi

          Nỗi hận thù chưa rửa được

          Chiếc chiếu bó thân anh…”                               


     Khi được giải thoát khỏi ngục tù, lúc thăm bạn, tình cảm dâng tràn:


          “Bắt tay bạn nghe lòng thật ấm 

          Ấm lạ thường dù chưa nhắp chén cay…” 

                                           (Thăm Bạn)


     Tại hải ngoại, nhận thức được nhiều khi có những mâu thuẫn giữa các bạn bè có chính kiến khác biệt, thi sĩ đã khéo léo nhắc nhở là chớ gây chia rẽ, thờ ơ vì như thế là u mê và chỉ làm quà cho giặc:


          “Quên mất rằng chỉ mỗi kẻ thù chung

          Là cộng sản vô thần, độc tài, bán nước…” 


     Tất nhiên một cái ơn nghĩa to lớn và đáng ghi nhớ nhất trong số những ơn nghĩa trùng trùng là ơn Tổ quốc, giống nòi, quê hương. Không bao giờ quên bản thân mình là dân Việt:


          “Ơn Tổ Quốc

          Ơn giống giòng

          Ơn Việt Nam đã nối vòng tử sinh.”


     Công lao của các bậc tiền bối trong sử sách cùng với hình ảnh quê hương nào là bờ tre, bụi chuối, nào là bóng dừa, vườn cau… mãi mãi khắc ghi trong tâm hồn thi sĩ, chẳng dễ mau quên:


          “Quê mẹ đó bời bời xa tăm tắp

          Mấy ngàn năm Đinh, Lê, Lý, Nguyễn, Trần

          Tiền nhân dày công bao đời xây đắp

          Xương máu anh hùng tô thắm giải giang sơn…”                                                           


                                                                                *


     Hàn Mạc Tử vốn là người được nuôi dưỡng trong môi trường Thiên Chúa Giáo thế mà khi làm thơ đã nhiều lần nói lên cái ảnh hưởng bàng bạc và sâu xa của Phật giáo. Khi thì viết rằng: “Thơ tôi thơm huyền diệu / Mọc lên đạo từ bi…” Trong bài khác lại viết: “Trời từ bi cảm động ứa sương mờ…” Ngay trong bài “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria” thi sĩ họ Hàn cũng đặt bút viết: “Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu với bình minh / Chiếu cùng khắp ba nghìn thế giới.”


     Chính vì cái tư tưởng Phật giáo đã lắng sâu trong hồn dân tộc, trong nếp sống hàng ngày nên trong thơ Huỳnh Công Ánh, người cũng được nuôi dưỡng trong Thiên Chúa Giáo, độc giả cũng thấy xuất hiện những hình ảnh Phật giáo. Trước hết là “Niết Bàn”, “thiền”, rồi đến “luân hồi” và hình bóng “Phật Đà”:  


          “Niết Bàn gần lắm không cần với 

          Đã sẵn trong tâm một chữ thiền...”                             


          “Luân hồi nghĩa là loanh quanh quay lại 

          Ta ở điểm nào trên vòng ấy bánh xe?...”


          “Bánh xe em, vòng luân hồi kiếp kiếp 

          Quay muôn đời cứ thế kéo theo tôi…” 


          “Nam mô Phật, niệm không ngừng

          Cầu ơn cứu độ đễ đừng rời nhau.” 


     Bàng bạc trong thơ còn có những từ ngữ khác đặc biệt của Phật giáo như “cõi tạm”, “cõi ta bà”, “sắc không”, “tiếng chuông Bát nhã” và “cầu kinh siêu độ” v.v…


                                                                                     *


     Một điểm rất độc đáo trong thơ Huỳnh Công ánh là thi sĩ hầu như đã nghĩ sao viết vậy. Lời thơ rất mộc mạc nhưng vẫn đầy nhạc tính. Điển hình là bài thơ có tựa đề là “Chu Đáo”:          


          “Món chu đáo, món mặn nồng

          Kho cùng với món thương chồng đường xa

          Món đảm đang, món thiết tha

          Món dịu dàng nữa mở ra thơm lừng

          Dỡ cho anh đầy một thùng

          Mỗi ngày ăn món thủy chung em làm.” 


     Hoặc khi đòi trả công trong bài “Ân Cần”:


          “Vá hộ anh 

          chỗ rách này

          Trả công anh vẽ 

          lông mày em cong

          Dùng dằng mãi 

          chưa hài lòng

          Thêm nụ hôn nữa 

          Được không?

          Ừ liền.” 


     Và bàng bạc trong tập thơ độc giả bắt gặp những từ ngữ rất bình dị, mộc mạc như “càu nhàu”, “mắc dịch”, “lành nhành”, “chậm dìa”, “cù lần”… Lúc thì cười “nắc nẻ”, khi thì “te tua”, có thời “lí lắc”, lúc thì nằm “chèo queo”, rồi còn hình ảnh chạy “lia” và ôm eo ếch “chắc nụi” v.v….


     Từ bình dị, mộc mạc dòng thơ nhiều khi lại thản nhiên gợi ra những hình ảnh rất dí dỏm, hóm hỉnh, tạo ra những nụ cười khá ý nhị. Khi cho con lên 3 bú sữa mẹ, con chê là hôi mùi thuốc rê, thi sĩ thản nhiên viết:


          “Sao lạ vậy cà

          Thôi để mẹ hỏi

          Ông già mày coi.” 


     Đôi khi lại muốn đóng vai chú cuội ngấp nghé dưới ánh trăng:

 

          “Ánh trăng sáng ngà

          Núp sau gốc đa

          Dưới ao em tắm

          Anh là cuội già.” 


     Trong bài “Mơ Bị VC Bắt Lại” từ ngữ thật độc đáo: 


          “Đang ngủ đá vào mông em cái bịch

          Em hét lớn! Sao vậy? Anh đá em 

          Không, anh đá lũ địch

          Nó chụp anh kéo vào lại trại giam...” 

 

     Quả thật Hùynh Công Ánh không hề than mây, khóc gió. Trong thơ không thấy đề cập chi tới “bờ môi trái mộng”, không thấy hình ảnh “khoé mắt trời sao” và cũng chẳng có “da em lụa là”… Tuyệt nhiên không thấy đề cập chi tới “động hoa vàng”. Vắng bóng “chốn Thiên thai”. Còn đâu “rừng ái ân”…


     Phải chăng Huỳnh Công Ánh đã chọn đường đi khá biệt lập trong thi ca nhưng lại rất đặc sắc. Vì thái độ tất yếu của thi nhân vẫn là sự chân thành, chân thành với đời và nhất là trung thành với chính mình. Nếu không có sự chân thành đó thì thi nhân sẽ không còn là thi nhân nữa.


                                                                                *


     Thi sĩ Huỳnh Công Ánh là một chiến sĩ nêu cao ý chí chống lại chế độ cộng sản rất tích cực. Cái ngày mà cộng sản thường gọi là ngày “giải phóng” thời thi sĩ của chúng ta khẳng định:


          “30 tháng 4

          Ngày giao hàng của phường buôn dân bán nước

          30 tháng 4

          Ngày tủi hờn của người vì tự do tranh đấu

          Ngày tổ quốc vấn khăn tang

          Ngày Việt Nam trong đêm đen

          Ngày dẫn cuộc đời anh đi vào nhà giam…” 


     Kể từ đó dân Việt lầm than trong kiếp tù đày, cảnh sống tang thương khắp trong xã hội, kẻ đi làm lao nô, người trở thành nô lệ tình dục ở nước ngoài :


          “Cả giống nòi quằn quại bởi lũ cuồng điên

          Họng súng, lưỡi lê, trại tù khắp mọi miền…” 


          Khi còn những lao nô, em bé bán mình

          Những trẻ thơ không đủ áo, đủ cơm…”


      Đất nước đang trên bờ vực thẳm rơi vào kiếp nô lệ ngoại bang, bị Hán hóa:         


          “Ôi lịch sử đang đến hồi mạt vận

          Lũ vô thần dâng, nộp, bán nước non…” 


     Thi sĩ nói lên cái ước nguyện của mình. Đây cũng là tiếng nói thiết tha của toàn dân Việt cả ở trong nước lẫn hải ngoại:


          “Muốn sống còn về lại với người thương 

          Anh em ta chỉ còn có con đường

          Phá ngục tù, không còn loài quỷ đỏ 

          Về chung xây lại cả nước Việt Nam…”


          “Thề một ngày diệt lũ vô thần

          Để người Việt Nam

          Được làm người Việt Nam.” 


     Tại hải ngoại, với tinh thần quật cường bất khuất Huỳnh Công Ánh luôn nêu cao hình ảnh ngọn cờ vàng ba sọc đỏ. Ngọn cờ chính nghĩa này luôn luôn in đậm trong tâm khảm. Trong Đại hội Hưng Ca thi sĩ viết:


          “Gặp người, người gặp ta lần ấy

          Cờ Vàng bay bay trong mắt nhau…” 

           

          “Hôm nay lục lại ngày tháng cũ 

          Vẫn hồn tôi lồng lộng ánh Cờ Vàng…” 


          “Hai mươi lăm năm rồi

          Em vẫn là em gái nhỏ

          Mà Triệu Trưng linh hiển

          Hiện trong hồn

          Vững bước dưới bóng cờ

          Vàng ba sọc đỏ 

          Ước vọng giống nòi

          An lạc, quang vinh…” 


     Xuân Diệu trước khi bị nhuộm đỏ bởi chủ nghĩa vô thần đã hứng chí mà cho rằng thi nhân là “Một con chim đến từ núi lạ, ngửa cổ hát chơi.”  Người nghe có cảm tưởng rằng trong cuộc đời này thi sĩ chỉ là một người quá xa lạ giữa loài người xa lạ.

 

     Nhưng Huỳnh Công Ánh của chúng ta không phải là một con chim đến từ núi lạ. Con chim này đã trốn thoát khỏi cái lồng tù ngục cộng sản, cái loại nhà tù chẳng lạ lẫm chi vì thường được che đậy dưới danh xưng xảo quyệt là “trại học tập cải tạo” mà ai cũng hay biết. Sau khi vượt trốn thành công khỏi trại tù thi sĩ lại thêm một lần nữa trốn khỏi cái lồng tù ngục lớn hơn, đó là đất nước Việt Nam dưới ngọn cờ máu. May thay cuộc vượt biên tới bến bờ tự do cũng thành công.


     Hơn nữa Huỳnh Công Ánh không ngửa cổ hát chơi. Thi sĩ kiêm nhạc sĩ này đã hát lên với giọng ca hùng tráng, truyền cảm trong phong trào Hưng Ca VN do chính anh sáng lập. Hát đòi Tự do, đòi Dân chủ và Nhân quyền cho người dân Việt. Anh đóng vai ca nhạc sĩ vừa sáng tác, vừa hát những ca khúc đấu tranh, quyện với tiếng đàn độc tấu tây ban cầm rất tài hoa của chính anh:


          “Bút thay gươm, lời hát rền thay bom

          Khắp năm châu, lảnh lót vạn tiếng chuông…”  

     

     Tự nhủ cùng nhau rằng bằng câu hát lời ca coi như đã tham dự vào cuộc hành quân diệt cộng. Một lòng nuôi ý chí quang phục quê hương, giành độc lập cho đất nước, và xây dựng một Việt Nam không cộng sản, có tự do, dân chủ, và nhân quyền’’ :


          “Anh em mình, bởi thế mãi ngược xuôi

          Đem niềm tin vang tỏa nỗi ngậm ngùi

          Mong quê mẹ giống nòi thôi quằn quại…” 

     

     Văng vẳng tiếng Mẹ Việt Nam kêu gọi bên tai:


          “Mẹ đang chờ, mẹ đang đợi

          Đợi đàn con từ khắp muôn nơi 

          Quay về

          Giành lại quê hương….” 


     Thi ca của Huỳnh Công Ánh quả thật là tiếng nói của lòng người, là cảm xúc chân thành, nói lên cái ước vọng của con người. Cầu mong sao điều mong ước của thi sĩ, và có lẽ của chung người dân Việt ở khắp mọi nơi, sớm trở thành hiện thực trong tương lai:


          “Quê hương sẽ một ngày kia quang phục

          Tự do, nhân quyền và nòi giống quang vinh” 


                                                                                   *

 

     Vườn hoa văn học nghệ thuật hải ngoại lại một lần nữa mở rộng đôi cánh cửa đề đón thêm một bông hoa đầy khởi sắc, đó là thi phẩm: “ƠN NGHĨA TRÙNG TRÙNG” của Huỳnh Công Ánh.


LS. Ngô Tằng Giao

(Tháng 8 năm 2013)


_____________________________________


        




































































MỤC LỤC



Giới Thiệu – Cao Nguyên   6-11

Đọc Cát Bụi Lăn Trầm 12-29

Xuân Tôn Ngộ Không Bính Thân 2016 30-31

Xuân Ấm 32

Xuân Không 33-34

Xuân 13 35

Tết Tây 13 36

Tết 13 37

Ngày Xuân Ai Đó Luận Đường Thi 38-40

Tháng 4 – 40 Năm 41

Tháng 4 Nhớ Bạn 42-43

Vượt Biên 44-45

Vượt Biên 81 46-47

Chuyện Núi Sông 48

Chào Cờ 49

Ngoảnh Lại 50-51

Mỗi Tháng 4 Về 52

Ai Cũng Thế 53

Cát Bụi Lăn Trầm 54-55

Nhớ Ngày Đầu 56-57

Tình Cha 58-59

Nhớ Mẹ 60

Ngày Lễ Mẹ Thứ 39 61-62

Tam Quan-Bồng Sơn 63-64

Tuổi Thơ Tôi 65-66

Những Ngày Lễ Nhớ Con 67-68

Cô Tư Huỳnh Thị Phụng 70

Cô Tám Huỳnh Thị Tâm 71

Chị Hai Chiêu 72

Huỳnh Công Quang-Huỳnh Công Thành 73

Huỳnh Thị Lan 74

Huỳnh Công Minh 75

Huỳnh Thị Tánh 76

Huỳnh Công Tường 77

Hoàng Mai 78-79

Huỳnh Cẩm Đoan 80

Huỳnh Tú Đoan – Huỳnh Hà Đoan 81

Huỳnh Anh Sơn 82

Huỳnh Công Việt-Huỳnh Công Nam 83

Huỳnh Anh Thư 84

Phan Thị Lang-Phan Thị Cúc 85

Phan Minh Đức – Ngọc 86

Bảo Trâm – Bảo Châu 87

88

Bạn Tù Nguyễn Đình Chiến 89

Thơ 90

Thử Hỏi 91

Tiễn Chị Ngọc Dung D.C. 92

Chào Em TTYN 93

Tiếng Đàn Bầu – Tiếng Sáo 94-96

Nghe Độc Huyền Cầm 97-98

Ừ Thôi 99-100

Nỗi Lòng 101-109

Tình Trăm Năm 110

Đành Thôi 111

Tôi với Tôi 112

Thả 113

Đến và Đi 114

Tự Hối 115-116

Mưa Viễn Xứ 117-118

Khoảnh Khắc 119-121

Có Còn Đợi Nhau 122-123

Ai Còn Đợi 124

Đôi Lần 125

Cũng Thế 126

Thỉnh Thoảng 127

Thu 128

Mùa Thu Xót Xa 129-130

Hạ Về 131-132

Đông Về 133-134

Thử Hỏi 135

Mống Chuồn 136

Đâu Còn 136

Chờ Đến Thiên Thu 137

Nai Theo Bầy 138

Bỏ Nhau Rồi Ta Ở Với Ai 139-140

Ngày Vui Thuở Ban Đầu 141-142

Nhịn 143-144

Phủi Sạch 145

Truân Chuyên 146

Cùng Cả Đau  Đau 147

Nắng Mai 148-140

Cuộc Đời 150-151

Ném Bỏ 152

Thả 152

Truy Cập 153

Ngàn Sau 154

Nhật Nguyệt Đôi Bờ 155-156

Bài Thơ Không Nghĩa 157-158

Hát Cho Tuôi Trẻ Phương Uyên-Nguyên Kha 159-160

Sơn Hà Nguy Biến 161

Mơ Về Việt Khang-Trần Vũ Anh Bình 162-163

Tự Do Chẳng Ai Cho Không 164-165

Ngày Đã Tới 166-167

Noi Gương Quang Trung 168-169

Tan Vỡ 170-171

Khi Đồng Minh Phản Bội 172-173

Đánh Giặc Tàu 174-175

Cùng Một Mẹ Việt Nam 176

Một Chút Thơ Nhạc của Hưng Ca Huỳnh Công Ánh 177-186

Đọc Tập Thơ Ơn Nghĩa Trùng Trùng của HCA 187-202